Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ t
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta
học được nhiều điều trong một xã hội pháp quyền, nhưng trước hết cần học tập
tinh thần, phong cách thượng tôn pháp luật của Người. Vì nếu mỗi người trong
chúng ta đều thượng tôn pháp luật thì trật tự xã hội được đảm bảo, cuộc sống sẽ
tươi đẹp và góp phần tạo nên diện mạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng thượng tôn pháp luật của Hồ Chí Minh thể hiện trong quan niệm về
vai trò của pháp luật trong xã hội và các quyền tự do, dân chủ của công dân. Khi
vạch trần chế độ cai trị hà khắc, phi pháp quyền của Chính phủ Pháp
ở các nước thuộc địa,
Người chỉ rõ: «Ở Đông Dương có hai thứ
công lý. Một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được
xử như ở Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật
sư người An Nam. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt bị
cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam với người Pháp thì lúc nào người Pháp
cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn cướp hay giết người».
Khi sống và làm việc tại Pháp, năm 1919 Người đại diện cho nhóm người Việt Nam
yêu nước gửi tới Hội nghị Véc-xây Bản yêu
sách của nhân dân An Nam. Trong số các yêu sách đó, đáng chú ý là yêu sách
thứ bảy: Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng
việc quản lý xã hội bằng pháp luật và tinh thần thượng tôn pháp luật mà còn rất
trú trọng đến việc thực thi quyền của con người. Trong lời mở đầu của bản Tuyên
ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Đồng thời, để tăng thêm tính giá trị của lời khẳng định này, Người đã trích dẫn
nội dung được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp năm 1971: Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi; và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai
chối cãi được. Bản Tuyên ngôn chỉ vỏn vẹn 49 câu với 1.010 chữ nhưng lại
chứa đựng những nội dung vô cùng to lớn, mang ý nghĩa sâu sắc. Bên cạnh sứ mệnh
đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - độc lập, tự do và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, Bản Tuyên ngôn còn có giá trị tinh thần cách mạng và nhân văn cao
cả. Tư tưởng về quyền con người không chỉ dừng lại ở quyền sống, quyền bình
đẳng, quyền tư do và mưu cầu hạnh phúc, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bàn tới khía
cạnh quyền con người phải được pháp luật bảo vệ. Bác dùng cụm từ « Tất cả mọi
người… » có một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, vì cụm từ đó thể hiện quan điểm rõ
ràng là quyền con người không phân biệt giới tính, tôn giáo hay dân tộc.
Bên cạnh đó, tư tưởng thượng tôn pháp luật của Hồ Chí Minh còn thể hiện
trong quan điểm về nhà nước dân chủ là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp và quản
lý xã hội theo pháp luật. Nội dung tư tưởng này được đề cập ở các tác phẩm của
Người từ đầu thế kỷ XX và Nghị Quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII
(11/1940) về việc ban bố một bản Hiến pháp dân chủ. Do đó, ngay sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công, một trong 6 nhiệm vụ cơ bản của Chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra là tổ chức tổng tuyển
cử và xây dựng Hiến pháp dân chủ. Bốn tháng sau đó, ngày 6 tháng giêng năm 1946,
nước ta tiến hành cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên chọn người tài, đức để gánh vác
việc nước trong Quốc hội. Ngày 9/11/1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946 mà Hồ Chí
Minh làm Trưởng ban soạn thảo). Ngay trong Lời nói đầu của bản Hiến pháp này đã
nêu lên ba nguyên tắc cơ bản: a) Đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống
nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; b) Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; c) Thực
hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Ba nguyên tắc này thể hiện
rất rõ yêu cầu dân chủ và tinh thần pháp quyền trong chế độ nhà nước và đặc biệt
không có người bóc lột người.
Năm 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bắt tay vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiến hành đấu tranh thống nhất đất nước. Thực
tiễn đó đặt ra yêu cầu về một bản hiến pháp mới. Do đó, tại kỳ họp thứ 6, Quốc
hội khóa I (29/12/1956) đã quyết định thành lập Ban sửa đổi hiến pháp do Chủ
tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban. Đến ngày 1/4/1959, bản Dự thảo Hiến pháp được
công bố cho toàn dân thảo luận. Ngày 18/12/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết
trình trước Quốc hội về bản Dự thảo Hiến pháp trên tinh thần tiếp thu ý kiến
đóng góp của nhân dân và ngày
31/12/1959, Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua. Điều 6, Hiến pháp năm 1959 nêu
rõ: Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước
đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp
luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân. Với tinh thần tối thượng của Hiến pháp như vậy, tất cả cán bộ, nhân dân
đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, không một ai được đặt mình trên pháp luật
hay ngoài pháp luật, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Đây cũng chính là
sự đảm bảo cao nhất về mặt pháp luật của một nhà nước hợp pháp thể hiện trong tư
tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh. Thông qua đó, quyền của công dân được bảo vệ và
chủ quyền quốc gia được đảm bảo.
Không chỉ coi trọng việc ban hành pháp luật, Hồ Chí Minh còn chăm lo đến
việc tuyên truyền pháp luật nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo điều kiện cho
pháp luật được thi hành trong các cơ quan nhà nước và nhân dân. Tại Hội nghị cán
bộ thảo luận dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình ngày 10/10/1959, Người nêu rõ:
công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong mà còn phải tuyên truyền,
giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
không chỉ đề cao tinh thần pháp luật, vai trò của pháp luật trong quản lý xã
hội, mà còn coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật để người quản lý
bằng pháp luật và thực thi pháp luật thực hiện cho đúng.
Do đó, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ học
tập tinh thần coi trọng pháp luật trong cuộc sống và làm việc, mà còn học tập
Người cách dân vận để đưa pháp luật thực hành hiệu quả trong cuộc sống.