Một số vướng mắc, bất cập từ những quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và xóa án tích
TS
TS. Phạm Minh Tuyên,
Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh
Tại chương IV và Chương IX của BLHS hiện hành đã có những quy định tương
đối cụ thể về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 23); những trường hợp
không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cùng các quy định về xóa án
tích; những trường hợp đương nhiên được xóa án tích (Điều 67); cách tính thời
hạn để xóa án tích (Điều 67)… Chúng tôi cho rằng, những quy định hiện hành là
tương đối đầy đủ và chặt chẽ, song thực tiễn áp dụng những quy định này vào một
số trường hợp cụ thể thì cũng nảy sinh những vướng mắc, bất cập cho tới nay chưa
có hướng dẫn để áp dụng thống nhất. Chúng tôi xin nêu một số vướng mắc, bất cập
về vấn đề này để các đồng nghiệp cùng tham khảo và có ý kiến đóng góp để việc áp
dụng pháp luật được thống nhất, bảo đảm sự công bằng trong Luật hình sự Việt
Nam.
Thứ nhất: Về vấn đề thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 23 Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có quy định
“1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định
mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực
hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm
tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên
một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ
được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh
truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ
khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ”.
Những quy định tại Điều 23 đã chỉ rõ Thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời
hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu trong thời hạn quy định nói trên, người phạm tội
lại phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời
hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Theo chúng tôi, việc quy định về
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là hết sức cần thiết, không chỉ có ý
nghĩa về bảo đảm tính thượng tôn của pháp luật mà còn nâng cao trách nhiệm của
các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc điều tra
khám phá các vụ án. Bên cạnh đó, việc quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự còn mang tính nhân đạo, tạo điều kiện cho con người phục thiện, sửa chữa
những sai lầm mà họ đã phạm phải.
Nghiên cứu những quy định tại Điều 23 thì thấy: Thời hiệu để truy cứu trách
nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện và hoàn thành mà ở đó
người phạm tội đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định tương
ứng với bốn loại tội phạm cùng thời gian quy định tại khoản 2 Điều 23 BLHS.
Trường hợp người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời
hiệu, thì ngoài thời gian tương ứng với quy định tại khoản 2 Điều 23 thì người
phạm tội phải là người không có hành vi trốn tránh và không phạm tội mới có
khung hình phạt cao nhất là trên một năm tù.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, chúng tôi thấy việc quy định tại Điều 23 BLHS
nếu chỉ áp dụng trong trường hợp phạm tội đơn lẻ thì dễ áp dụng, còn trong
trường hợp phạm tội mang tính đồng phạm mà có người phạm tội bỏ trốn, có người
không bỏ trốn thì cách tính thời hiệu lại có những cách hiểu và áp dụng không
thống nhất. Về vấn đề này, hiện có nhiều quan điểm khác nhau như một ví dụ cụ
thể sau:
Ngày 10-4-2000 Hoàng Văn H, Đinh Văn M và
Bùi Quốc T phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
138 Bộ luật hình sự. Ngày 15-4-2000 Cơ quan điều tra khởi tố vụ án và khởi tố bị
can đối với Hoàng Văn H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Do Hoàng Văn H bỏ trốn nên ngày 20-4-2000 Cơ
quan điều tra ra lệnh truy nã đối với Hoàng Văn H và tạm đình chỉ vụ án đối với
Đinh Văn M và Bùi Quốc T; ngày 23-4-2008, Hoàng Văn H bị bắt theo lệnh truy nã
nên Cơ quan điều tra phục hồi điều tra vụ án; này 15-8-2008 Cơ quan điều tra kết
thúc vụ án và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố các bị can Hoàng
Văn H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ
luật hình sự. Khi xem xét đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân huyện Q thấy: Nếu Hoàng Văn H không bỏ trốn hoặc tuy H bỏ trốn nhưng Cơ
quan điều tra không ra lệnh truy nã thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
hình sự đối với Hoàng Văn H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T đã hết (quá năm năm), do H
bỏ trốn và có lệnh truy nã nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với H
vẫn còn nhưng đối với Đinh Văn M và Bùi Quốc T thì có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc Hoàng Văn
H bỏ trốn không thể bắt Đinh Văn M và Bùi Quốc T phải chịu về việc bỏ trốn của
H. Do đó trong trường hợp này, chỉ có thể truy tố đối với Hoàng Văn H còn đối
với Đinh Văn M và Bùi Quốc T đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Bởi
lẽ, một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự nước ta là trách nhiệm cá
nhân. Trong một vụ án có đồng phạm hoặc nhiều người tham gia thì trách nhiệm
hình sự bao giờ cũng là trách nhiệm cá nhân, việc Hoàng Văn H bỏ trốn không thể
bắt Đinh Văn M và Bùi Quốc T phải chịu về việc bỏ trốn của H. Trong thời hạn
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một ngươì không trốn tránh và không có lệnh truy nã
thì hết thời hạn đó không được truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ nữa, ngay
cả trường hợp họ trốn tránh mà cơ quan điều tra “quên” không ra lệnh truy nã mà
đã hết thời hiệu thì cũng không được truy cứu trách nhiệm hình sự đối họ.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với Hoàng Văn H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T là 5 năm
kể từ ngày 10-4-2000 nhưng vì H bỏ trốn, Cơ quan điều tra phải tạm đình chỉ điều
tra nên thời gian tạm đình chỉ điều tra không được tính vào thời hạn truy cứu
trách nhiệm hình sự. Quan điểm của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao đồng tình
với quan điểm này và cho rằng: Mặc dù Đinh Văn M và Bùi Quốc T không bỏ trốn
nhưng Cơ quan điều tra đã khởi tố bị can đối với M và T, tức là từ khi khởi tố
bị can trở đi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử có bị kéo dài vì lý do khác
nhau thì cũng không được trừ vào thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự. Về
nguyên tắc, sau khi Hoàng Văn H bị bắt theo lệnh truy nã, Cơ quan điều tra phục
hồi điều tra vụ án là phục hồi điều tra đối với cả Hoàng Văn H, Đinh Văn M và
Bùi Quốc T chứ không chỉ có Hoàng Văn H.
Chúng tôi lại không đồng tình với quan điểm
thứ hai mà đồng tình với quan điểm thứ nhất bởi lẽ: Đinh Văn M và Bùi Quốc T dù
không bỏ trốn nhưng lại phải “chờ” bắt được Hoàng Văn H mới “được” xử lý là gây
bất lợi cho Đinh Văn M và Bùi Quốc T, trong lúc Hoàng Văn H bỏ trốn thì cuộc
sống của Đinh Văn M và Bùi Quốc T đã ổn định, bản thân Đinh Văn M và Bùi Quốc T
đã là người lương thiện và không còn nguy hiểm cho xã hội nữa mà khi bắt được
Hoàng Văn H họ vẫn bị xử lý là không công bằng. Việc vẫn truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với Đinh Văn M và Bùi Quốc T là trái với quy định tại Điều 165 Bộ
luật tố tụng hình sự.
Tại Điều 165 Bộ luật tố tụng hình sự có quy
định:
“1. Khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự…”
Đối chiếu với trường hợp trên thì Hoàng Văn
H đã bỏ trốn sau tám năm mới bị bắt theo lệnh truy nã mà thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với Đinh Văn M và Bùi Quốc T chỉ là 05 năm và khi phục
hồi điều tra thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với M và T đã hết
nên không thể truy cứu trách nhiệm hình sự được, do vậy cần phải đình chỉ điều
tra đối với M và T, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với H là thỏa đáng vì H
đã có hành vi bỏ trốn và bị truy nã và thời gian trốn tránh không được tính và
thời hiệu đối với H được tính lại kể từ khi bắt được Hoàng Văn H.
Trên thực tế, các Cơ quan tiến hành tố tụng
tỉnh Bắc Ninh cũng đã đồng nhất với quan điểm này thông qua một vụ án cụ thể như
sau: Vào khoảng 20h ngày 09/10/1996 các đối tượng Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Văn Uyển,
Nguyễn Đình Thoan, Nguyễn Văn Quyến, Nguyễn Văn Uy, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn
Chín cùng Nguyễn Văn Cương đã có hành vi gây thương tích cho anh Phạm Văn Công
làm anh Công bị mất 50% sức khỏe. Các đối tượng trên bị khởi tố về tội “Cố ý gây
thương tích” theo Điều 109 BLHS năm 1985. Trong quá trình điều tra Nguyễn Văn
Cương đã bỏ trốn và bị Cơ quan điều tra ra lệnh truy nã và vụ án được tạm đình
chỉ. Tới ngày 13/01/2014, Nguyễn Văn Cương bị bắt và vụ án được phục hồi điều
tra. Viện kiểm sát huyện Quế Võ đã ra bản Cáo trạng truy tố tất cả các đối tượng
trên về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a,c khoản 2 Điều 109 BLHS năm 1985
và sau đó lại rút quyết định truy tố và đình chỉ đối với các bị can Nguyễn Văn
Tỵ, Nguyễn Văn Uyến, Nguyễn Đình Thoan, Nguyễn Văn Quyến, Nguyễn Văn Uy, Nguyễn
Văn lâm và Nguyễn Văn Chín vì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định tại Điều 165 BLTTHS và chỉ truy tố đối với Nguyễn Văn Cương. Chúng tôi
cũng hoàn toàn nhất trí với quyết định của Viện kiểm sát. Bởi lẽ, hành vi phạm
tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng mà thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với trường hợp này là mười năm, trong khi vụ án đã được tạm
đình chỉ tới 18 năm. Trong 18 năm đó các bị can đều chấp hành tốt mọi quy định
của pháp luật và là người lương thiện, sinh sống ổn định tại địa phương, không
thể vì việc vi phạm pháp luật của Cương cũng như việc không tiếp tục tiến hành
các hoạt động tố tụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật mà buộc các bị can khác
cũng phải chịu trách nhiệm theo, như vậy là không thể hiện tính nhân đạo và
khoan hồng hướng thiện của pháp luật. Tuy nhiên, để việc áp dụng pháp luật được
thống nhất trong những trường hợp này, cũng đề các Cơ quan tố tụng Trung ương
cũng cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể để việc áp dụng pháp luật được thống
nhất.
Thứ hai: Về quy định xóa án tích.
Án
tích là việc một người bị Tòa án kết án và chưa được xóa án. Việc quy định chế
định án tích và xóa án tích trong Bộ luật hình sự (BLHS) thể hiện tính nhân đạo
của Nhà nước đối với người bị kết án. Việc đặt ra chế định xóa án tích nhằm
khuyến khích người bị kết án nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, tu dưỡng, rèn
luyện bản thân để trở thành người có ích cho xã hội.
Theo quy định tại Điều 63
BLHS thì người bị kết án được xoá án tích theo quy định tại các Điều từ 64 đến
Điều 67 thì coi như chưa bị kết án và được toà án cấp giấy chứng nhận. Sau khi
được xoá án tích mà phạm tội mới thì không được căn cứ vào bản án trước đó để
xác định tái phạm.
Trong phạm vi bài viết này
chúng tôi chỉ đề cập đến trường hợp đương nhiên xoá án tích.
Theo quy định tại điều 64
Bộ luật hình sự, thì những người được đương nhiên xoá án tích gồm: Người được
miễn hình phạt; Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI (Các
tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXIV (Các tội phá hoại hòa bình, chống
loài người và tội phạm chiến tranh), nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ
khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau
đây:
- Một năm trong trường hợp
bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được
hưởng án treo.
- Ba năm trong trường hợp
hình phạt tù đến ba năm.
- Năm năm trong trường hợp
hình phạt tù từ trên ba năm đến mười năm.
- Bảy năm trong trường hợp
hình phạt tù từ trên mười lăm năm.
Khi đã đủ điều kiện để
được xoá án tích đã nêu ở trên, thì người bị kết án đương nhiên được xoá án tích
(tức là coi như chưa phạm tội). Toà án không phải cấp giấy chứng nhận cho tất cả
những người được đương nhiên xoá án tích mà chỉ cấp giấy chứng nhận khi những
người được đương nhiên xoá án tích có đơn yêu cầu.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu
thực tiễn, chúng tôi thấy việc quy định điều kiện để tính thời hạn xóa án tích
là kể từ khi người phạm tội chấp hành xong toàn bộ các quyết định của bản án và
không phạm tội mới trong thời hạn như đã nêu cũng nảy sinh những vướng mắc đối
với một số trường hợp như sau:
Ví dụ : Ngày 01/02/2010,
Nguyễn Văn A bị Tòa án nhân dân thành phố BN xét xử về tội
“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1
Điều 202 BLHS. Căn cứ vào hồ sơ vụ án và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Nguyễn Văn A 12 tháng tù nhưng cho hưởng án
treo thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, trách nhiệm dân sự không
đặt ra vì giữa bị cáo và gia đình người bị hại đã tự nguyện thỏa thuận xong phần
bồi thường. Về phần cấp dưỡng nuôi con, Tòa có tuyên buộc Nguyễn Văn A phải có
trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu Trần Văn H sinh 20/01/2010 do chị Phạm Thị B là
mẹ đại diện mỗi tháng 1.000.000đ kể từ tháng 2/2010 đến khi cháu H tròn 18 tuổi.
Như vậy theo quy định tại Điều 64 thì giả xử Nguyễn Văn A chấp hành xong các
quyết định của Bản án ngày 01/02/2010 vào ngày 01/02/2012 (hết thời gian thử
thách) thì tới 01/02/2013 Nguyễn Văn A sẽ được đương nhiên xóa án theo quy định
tại Điều 64 Bộ luật hình sự. Xong việc cấp dưỡng nuôi con, nếu giữa người phạm
tội và người đại diện hợp pháp cho người bị hại không thỏa thuận được với nhau
về việc cấp dưỡng một lần thì bản án của Tòa phải tuyên cấp dưỡng hàng tháng và
như vậy dẫn tới việc Nguyễn Văn A muốn tự nguyện chấp hành xong toàn bộ các
quyết định của Bản án cũng không được và như vậy để được tính thời hạn xóa án
tích như trường hợp trên thì A vẫn phải đợi 18 năm sau kể từ khi tuyên án mới
được tính thời hạn để xóa án tích.
Đây cũng chỉ là tiền cấp dưỡng nuôi con thì còn có thời gian cụ thể, còn đối với
các trường hợp buộc phải cấp dưỡng nuôi bố mẹ của người bị hại đã chết thì lại
không có thời hạn cụ thể mà nhanh hay chậm là do tuổi thọ của người được cấp
dưỡng, có nhiều trường hợp việc cấp dưỡng kéo dài tới hai, ba mươi năm thì người
phạm tội vẫn cứ phải mang án tích mà không thể xóa án tích được vì chấp hành
xong bản án tức là phải chấp hành xong tất cả các quyết định của Bản án. Theo
chúng tôi, đây chính là những bất cập, gây bất lợi cho người bị hại và cũng chưa
thể hiện hết tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật XHCN.
Để khác phục những bất cập trên, Bộ luật hình sự
cần có những quy định cụ thể hơn đối với những trường hợp này theo hướng sau:
Đối với những trường hợp mà Bản án tuyên đối với người phạm tội phải có nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con hoặc bố, mẹ của người bị hại đã chết, thì thời hạn để xóa án
tích đối với họ cũng được tính kể từ khi họ đã chấp hành xong các quyết định
chính của Bản án như chấp hành xong thời hạn tù hoặc thời gian thử thách nếu là
án treo, các quyết định về bồi thường, án phí…Còn việc cấp dưỡng chỉ coi là
nghĩa vụ của họ phải thực hiện và họ phải chấp hành theo quy định của Luật thi
hành án dân sự, chứ không nên quy định như hiện hành, tránh trường hợp người
phạm tội cho tới lúc chết vẫn phải mang án tích.