Kỳ họp tháng 9/2013 của Hội đồng Thẩm phán và một số vấn đề nghiệp vụ (P.3)
(Vụ án đòi lại nhà ở giữa ông Nguyễn Văn Kỷ và bà Trần Thị Dung ở thành phố Biên Hòa)
Năm 1990, trước khi xuất cảnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Kỷ bà Ngô Thị Mai đã ký kết “Đơn xin ủy quyền nhà” ngày 26-2-1990 với vợ chồng ông Ngô Văn Biểu (em ruột bà Mai) bà Trần Thị Dung có nội dung “ủy quyền ngôi nhà ghi trên mang tên quyền sở hữu nhà cho đằng nhận…” về ngôi nhà số 330/14/43 Khu phố 5, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa. Ngày 24-4-1990, ông Biểu, bà Dung được chuyển đứng tên quyền sở hữu nhà. Ông Kỷ còn có “Đơn xin cấp giấy chứng nhận không nhà đất” ngày 01-3-1990. Tuy vậy, tại “Giấy xác nhận lời cam kết về tài sản” của ông Biểu được lập tại Công chứng nhà nước ngày 08-01-1996, ông Biểu xác nhận quyền sở hữu nhà vẫn thuộc ông Kỷ bà Mai còn vợ chông ông chỉ là người quản lý. Năm 2003, ông Biểu chết.Năm 2006, anh Dũng (con ông Biểu) phá bỏ nhà cũ, làm nhà mới. Ngày 20-6-2008, ông Kỷ, bà Mai khởi kiện đòi bà Dung và anh Dũng trả lại quyền sử dung toàn bộ đất thổ sư (649 m2).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2009/DSST ngày 14-7-2009, TAND tỉnh Đồng Nai chỉ chấp nhận cho nguyên đơn được đòi lại ½ diện tích đất bằng tiền với lý do chỉ có ông Biểu đồng ý trả lại nên chỉ trả lại tương ứng phần của ông Biểu.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 70/2010/DSPT ngày 08-4-2010, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã sửa án sơ thẩm, buộc bà Dung, anh Dũng thanh toán cho ông Kỷ, bà Mai toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất (649m2) là 3.180.100.000đ. Bản án phúc thẩm đã bị Chánh án TAND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm.
Tại phiên họp ngày 24-9-2013, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã quyết định hủy Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm; giao cho TAND tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại. Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán có một số vấn đề pháp lý quan trọng sau:
Pháp luật cho phép người xuất cảnh hợp pháp để định cư ở nước ngoài vẫn có quyền sở hữu nhà ở đối với nhà mà họ đã có quyền sở hữu trước khi xuất cảnh. Vì vậy, vì những lý do như để làm thủ tục xuất cảnh thuận lợi hoặc theo quy định của một số địa phương họ phải thực hiện một số giao dịch giả tạo (như ủy quyền đứng tên sở hữu, tặng cho, mua bán …) thì những giao dịch này vô hiệu. Trong vụ án này, các chứng cứ thu thập được, đặc biệt là “Giấy xác nhận lời cam kết về tài sản” do ông Biểu lập tại Công chứng nhà nước, đủ cơ sở khẳng định ý chí thực của các bên chỉ là ủy quyền quản lý nhà. Do đó, quyền sở hữu nhà vẫn tồn tại với ông Kỷ, bà Mai và họ có quyền đòi lại nhà. Cần lưu ý là họ có quyền đòi lại hiện vật chứ không phải chỉ có quyền đòi lại giá trị bằng tiền vì không phải là trường hợp mới tạo lập (thừa kế hay mua bán…) sau khi đã định cư ở nước ngoài.
Bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nhưng Bản án này vẫn bị hủy vì đã không giải quyết việc đền bù công sức quản lý nhà. Tuy phía bị đơn không có yêu cầu phản tố riêng về việc đòi công sức quản lý nhưng phải coi yêu cầu được sở hữu nhà của họ là yêu cầu cao hơn, đã bao gồm yêu cầu công sức quản lý nhà. Chỉ trong trường hợp đã giải thích rõ nhưng bị đơn vẫn chỉ yêu cầu đòi sở hữu, không yêu cầu giải quyết về công sức quản lý thì Tòa án mới không giải quyết về công sức quản lý.
Vấn đề pháp lý có thể rút ra là:
Người xuất cảnh hợp pháp để định cư ở nước ngoài tuy đã ký kết những giấy tờ có nội dung chuyển quyền sở hữu nhà cho người khác nhưng nếu những giao dịch này là giả tạo thì vẫn là giao dịch vô hiệu; người đã xuất cảnh vẫn có quyền đòi lại nhà.
Người quản lý nhà không có yêu cầu riêng về công sức quản lý nhưng nếu họ có yêu cầu sở hữu nhà thì phải coi là trong yêu cầu đó có yêu cầu thanh toán công sức quản lý’.