URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/96360474?pers_id=33814884&item_id=48176036&p_details=1
 
Kỳ họp 12/2013 của Hội đồng Thẩm phán và một số vấn đề nghiệp vụ (P.1)
24/02/2014-02:54:00 PM
 
Tài sản được cho riêng vợ (hoặc chồng) khi nào là tài sản riêng, khi nào là tài sản chung vợ chồng?
Tài sản được cho riêng vợ (hoặc chồng) khi nào là tài sản riêng, khi nào là tài sản chung vợ chồng?

(Vụ án chia tài sản sau khi ly hôn giữa ông Anh và bà Liên về căn nhà 526-An Dương Vương-TP. Hồ Chí Minh)

Ông Nguyễn Đức Anh và bà Lã Thị Bích Liên kết hôn ngày 05/12/1976. Năm 2003, ông Anh và bà Liên ly hôn tại Canada. Năm 2004, ông Anh khởi kiện chia tài sản chung là căn nhà 526 An Dương Vương, phường 9, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Anh nêu rằng căn nhà này do vợ chồng mua vào năm 1979 nhưng ông không có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh và nhằm giảm thuế nên đã giả tạo làm hợp đồng cho nhà giữa cụ Tiêu Mộc và bà Liên. Bà Liên không thừa nhận lời khai của ông Anh và khai rằng nhà 526 An Dương Vương là của cụ Mộc cho riêng bà là cháu nên là tài sản riêng của bà.

Tại Bản án sơ thẩm số 3282/2009/DS-ST ngày 03/11/2009, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã xác định nhà 526 An Dương Vương là tài sản chung của ông Anh và bà Liên căn cứ vào “Văn tự nhượng và thụ nhượng nhà” đề ngày 14/2/1992 (là văn bản có nội dung bà Liên ủy quyền cho bà Cao Thị Thanh Hồng quàn lý nhà để bà Liên xuất cảnh sang Canada do ông Anh bảo lãnh) có ghi tên ông Anh là đồng chủ sở hữu nhà.

Bản án sơ thẩm bị kháng cáo. Tại Bản án phúc thẩm số 197/2010/DS-PT ngày 11/9/2010, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã sửa án sơ thẩm, xác định nhà 526 An Dương Vương là tài sản riêng của bà Liên vì cho rằng văn bản ngày 14/2/1992 chỉ ghi theo mẫu, chưa đủ cơ sở công nhận sở hữu chung. Bản án phúc thẩm đã bị Chánh án TAND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm.

Tại phiên họp ngày 16/12/2013, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao  đã quyết định hủy Bản án phúc thẩm; giao xét xử phúc thẩm lại . Quyết đinh giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán có một số vấn đề pháp lý quan trọng sau:

Thời điểm khởi kiện chia tài sản chung là thời kỳ thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng. Tuy nhiên, việc bà Liên được tặng cho nhà 526 An Dương Vương được thực hiện hoàn thành từ năm 1979 (giấy phép cho nhà số 926/GP-SNĐ ngày 29/8/1979 của UBND thành phố Hồ Chí Minh). Thời điểm năm 1979 là thời điểm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Theo quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì; “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Thời điểm cho nhà cũng nằm trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp của ông Anh và bà Liên. Do đó, nhà 526 An Dương Vương đã trở thành tài sản chung của ông Anh và bà Liên theo pháp luật mà không cần có việc đưa  nhập vào tài sản chung như quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Đã là tài sản chung nên nay đã ly hôn, yêu cầu xin chia tài sản chung là có căn cứ. Việc chia tài sản chung vợ chồng  là chia theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật có hiệu lực ở thời điểm chia) mặc dù việc xác định tính chất pháp lý của tài sản được áp dụng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Luật có hiệu lực  ở thời điểm tạo lập tài sản).

Vấn đề pháp lý có thể rút ra là:

1.Xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng phải căn cứ vào pháp luật có hiệu lực ở thời điểm tạo lập tài sản.

2.Tài sản đã là tài sản chung, không có sự kiện thay đổi sở hữu thì vẫn là tài sản chung; quy định về các trường hợp  hình thành tài sản riêng theo Luật Hôn nhân và ga đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có hiệu lực hồi tố đối với các tài sản đã là tài sản chung từ trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực.

Chu Minh

In Trang | Đóng cửa sổ