URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=98230538&p_details=1
 
Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi và những vướng mắc bất cập trong thực tiễn
15/04/2015-03:53:00 PM
 
 VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ T

                                                                  
TS. Phạm Minh Tuyên
Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh

1. Thực tiễn vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành.

Tại Điều 130 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được sửa đổi theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc Hội đã quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Từ quy định của Hiến pháp có thể khẳng định: Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức Tòa án nói riêng và trong bộ máy Nhà nước nói chung.

Nếu vai trò của Thẩm phán trong tố tụng tranh tụng, thường có vai trò thụ động, rất ít khi hoặc không tham gia thẩm vấn mà chỉ là người điều khiển phần thẩm vấn cũng như phần tranh tụng của các bên. Do Tòa án không biết trước hồ sơ vụ án, nên sự tranh tụng giữa hai bên là nội dung chủ yếu của phiên tòa và nhiệm vụ của các bên trong quá trình tranh tụng là thuyết phục Tòa án mà đại diện là Thẩm phán tại phiên tòa chấp nhận yêu cầu của mình. Còn đối với vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi (thẩm vấn) thì lại khác. Trong tố tụng thẩm vấn thì Thẩm phán là người có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự so với những người tiến hành tố tụng khác, đồng thời Thẩm phán còn là người giữ vai trò quyết định trong hoạt động xét xử. Chính vì vậy, so sánh với Tố tụng tranh tụng khi vai trò của Thẩm phán được đề cao và nắm giữ vai trò quyết định thì các chức năng buộc tội và bào chữa tồn tại khá mờ nhạt và thụ động. Thẩm phán là người có trách nhiệm tìm ra sự thật trên cơ sở các sự việc, tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, các  Thẩm phán sẽ thực hiện trực tiếp việc thẩm vấn các nhân chứng một cách tích cực chứ không phải Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa và luật sư bào chữa. Chính vì vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo tố tụng thẩm vấn được đề cao như vậy,  nên Thẩm phán vừa là người tiến hành tố tụng, vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác. Để thực hiện chức năng của mình, trước khi mở phiên tòa xét xử Thẩm phán phải lập kế hoạch xét hỏ, dự kiến xét hỏi những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 207 về trình tự xét hỏi thì “khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự…”. Do vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải xác định được dầy đủ các tình tiết về từng sự việc, từng hành vi phạm tội và các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Thông thường, khi xét hỏi tại các phiên tòa các thẩm phán phải căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ để có những kế hoạch xét hỏi khác nhau như:

- Đối với vụ án chỉ có một bị cáo bị truy tố về một tộ danh thì việc xét hỏi cần tập trung làm rõ các tình tiết là yếu tố định tội, các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng mà Viện kiểm sát truy tố, các tình tiết là yếu tố gỡ tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.

- Đối với vụ án tuy chỉ có một bị cáo những lại bị truy tố theo nhiều tội danh khác nhau, thì việc xét hỏi cần theo một trình tự như: xét hỏi hết hành vi phạm tội này, rồi chuyển qua xét hỏi tới hành vi phạm tội khác, lần lượt cho đến hết các hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố song cũng cần làm rõ tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án như trường hợp trên.

- Đối với vụ án có nhiều bị cáo, bị truy tố về một tội danh hoặc nhiều tội danh khác nhau thì cần thẩm vấn từng bị cáo một về hành vi phạm tội hoặc xét hỏi từng bị cáo về từng tội danh như xét hỏi đối với trường hợp bị một bị cáo bị truy tố một tội. Tuy nhiên, đối với trường hợp nhiều bị cáo bị truy tố cùng một tội, thì khi xét hỏi cần phải làm rõ sự liên quan đến nhau của các bị cáo, cũng như vai trò của từng bị cáo trong vụ án…

Trong quá trình điều khiển việc xét hỏi, sau khi Thẩm phán đã hỏi xong, thì Thẩm phán phải thường xuyên theo dõi việc xét hỏi tiếp tục của những người tiến hành tố tụng khác, nếu thấy câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung hoặc những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật điều tra, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người thì có quyền yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu cầu người trả lời không trả lời câu hỏi đó. Trong trường hợp cần thiết phải công bố lời khai tại Cơ quan điều tra, nếu người được lấy lời khai nại ra rằng họ buộc phải khai là do Điều tra viên, Kiểm sát viên ép cung, mớm cung, dùng nhục hình nên mới khai như vậy, thì Thẩm phán có thể cho gọi Điều tra viên, Kiểm sát viên đến phiên tòa để đối chất. Nếu người được lấy lời khai đưa ra được những bằng chứng, nhân chứng để chứng minh rằng lời khai của họ tại Cơ quan điều tra là sai thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu họ nộp bằng chứng hoặc mời người làm chứng đến phiên tòa để đối chất. Trong trường hợp không thể triệu tập ngay được người làm chứng hoặc Điều tra viên, Kiểm sát viên đến phiên tòa mà lời khai của bị cáo hoặc người tham gia tố tụng có căn cứ thì phải hoãn phiên tòa để trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Tại phần tranh tụng, vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thể hiện ở chỗ: Nếu lời luận tội của Kiểm sát viên có những thay đổi so với bản Cáo trạng mà Kiểm sát viên không nêu lý do của việc thay đổi đó, thì Thẩm phán có quyền yêu cầu Kiểm sát viên trình bày lý do của việc thay đổi đó. Nếu bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không đồng ý với lời luận tội thì Thẩm phán yêu cầu họ nêu rõ lý do vì sao không đồng ý. Trong khi phát biểu những ý kiến khác nhau về một vấn đề nào đó mà vấn đề đó đã được tranh tụng trong quá trình xét hỏi thì không cần nhắc lại nữa. luật quy định, không được hạn chế thời gian tranh luận, song Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án, có quyền hạn chế số lần  phát biểu ý kiến mà mình không đồng ý. Thẩm phán điều khiển phần tranh luận có quyền yêu cầu những người tham gia tranh luận nêu những vấn đề không đồng ý và tranh luận từng vấn đề một.

Nếu người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự đưa ra những ý kiến đề nghị Kiểm sát viên tranh luận nhưng Kiểm sát viên không tranh luận, thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu Kiểm sát viên nói rõ lý do và việc này phải được ghi vào biên bản phiên tòa.

Tóm lại, trong tố tụng xét hỏi Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng là yếu tố quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng, không những thế vai trò của Thẩm phán còn thể hiện ở việc Thẩm phán là người đảm bảo sự công bằng thông qua hoạt động xét xử, thể hiện rõ nét chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp, thể hiện rõ nét tính nhân dân, tính công bằng, công lý và dân chủ trong hoạt động tư pháp trong đó Thẩm phán có vai trò trung tâm, là thành phần chính tạo nên chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử.

2. Một số vướng mắc, bất cập của tố tụng xét hỏi.

Mỗi một mô hình tố tụng đều có những mặt hạn chế và tích cực nhất định, đồng thời cũng có những điểm bất cập tương đồng. Đối với mô hình tố tụng thẩm vấn, có nhiều ý kiến chỉ trích cho rằng mô hình này không tôn trọng đầy đủ quyền của các bên đương sự bởi vì họ không có nghĩa vụ chứng minh chứng cứ. Vì chứng cứ là do Thẩm phán tập hợp chứng minh do vậy những ý kiến này cho rằng tố tụng thẩm vấn đi ngược lại nguyên tắc vô tư, khách quan và cho rằng Thẩm phán đã có sẵn trong đầu quyết định xét xử trước khi diễn ra giai đoạn xét xử. Do vậy, việc tranh tụng tại phiên tòa trở nên vô nghĩa. Những ý kiến trên cũng cho rằng mô hình tố tụng thẩm vấn thường kéo dài, mất nhiều thời gian vì có thêm giai đoạn điều tra. Theo mô hình tố tụng thẩm vấn thì Viện kiểm sát có những quyền hạn lớn hơn so với mô hình tố tụng tranh tụng, có quyền chỉ đạo công tác điều tra, phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra.

Đối với Việt Nam, do yếu tố lịch sử từ năm 1945 đến năm 1975 nước ta luôn sống trong cảnh thời chiến, luôn phải đối phó với bọn phản động. Do vây, đã  tác động đến phương thức hoạt động tố tụng hình sự, thiên về nhấn mạnh mặt đấu tranh với tội phạm mà có những thời điểm chưa chú trọng đến việc bảo đảm quyền công dân. Mặc dù, hoạt động tố tụng hình sự của Việt Nam theo mô hình tố tụng thẩm vấn, song do việc quá nhấn mạnh  việc cần thiết phải giải quyết nhanh chóng và kịp thời các vụ án hình sự nên chúng ta đã quá coi trọng các cơ quan  tố tụng tiến hành hoạt động tố tụng mà chưa coi trọng vai trò của luật sư trong tố tụng. Chỉ đến khi Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đều khẳng định cần “ mở rộng tranh tụng tại phiên tòa”; “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng caochất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” , mọi phán quyết của Tòa án đều phải dựa trên kết quả của tranh tụng. Quan điểm của Đảng ta cũng đã xác định, ngoài việc xác định rõ các đặc điểm đặc trưng hiện thời của tố tụng hình sự tại Việt Nam để có những bước đi tiếp theo chắc chắn và đúng đắn thì cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá và đặc biệt là sự chọn lọc những nội dung phù hợp của các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam. Từ khi có NQ08 và NQ 49, có thể khẳng định vai trò của Thẩm phán đã được coi trọng và vị thế của Tòa án cũng được nâng cao hơn, chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử hình sự cũng được chú trọng và đạt được nhiều kết quả khả quan. Song theo chúng tôi, hiện nay mô hình tố tụng đang áp dụng tại Việt Nam cũng có nhiều vướng mắc, bất cập được thể hiện như sau:

Thứ nhất: Để triển khai Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị, ngày 04/11/2002 Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có Công văn số 13 và Tòa án nhân dân tối cao đã có kết luận số 290 ngày 05/11/2002, theo các văn bản trên thì: “Đại diện Viện kiểm sát giữa quyền công tố tại phiên tòa phải bảo vệ Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên tòa; chứng minh mọi luận điểm trong Cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án”. Tuy nhiên, tại Điều 10 BLTTHS hiện hành lại quy định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Chính quy định như vậy của BLTTHS hiện hành, theo chúng tôi là vướng mắc và bất cập cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nói riêng và Ngành Tòa án nói chung bởi lẽ: Ngoài chức năng xét xử thì Tòa án, Thẩm phán còn có nghĩa vụ chứng minh vụ án, như vậy có thể việc giải quyết vụ án của Thẩm phán sẽ không khách quan do việc Thẩm phán phải tự mình đánh giá, kiểm tra chứng cứ đã có sẵn trong hồ sơ do Cơ quan điều tra thu thập, việc lập luận chứng minh của Thẩm phán dễ bị lệ thuộc vào Cáo trạng và thiên về đánh giá chứng cứ buộc tội mà xem nhẹ chứng cứ gỡ tội phát sinh tại phiên tòa. Quy định như vậy, dẫn đến tình trạng Thẩm phán làm thay công việc của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, ảnh hưởng đến việc tranh tụng tại phiên tòa do việc Thẩm phán vừa là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh lại là người điều khiển tranh tụng giữa bên buộc tội và gỡ tội.

Thứ hai: Tuy cải cách tư pháp đã  triển khai được nhiều năm, nhưng dường như chưa tạo được những thay đổi cần thiết  trong hoạt động tố tụng hình sự. Nguyên nhân cũng chính từ những bất cập, vướng mắc trong các quy định của BLTTHS hiện hành thể hiện cụ thể tại Điều 207 như đã phân tích dẫn đến Hội đồng xét xử mà vai trò chủ yếu là Thẩm phán, thay vì thực hiện chức năng trọng tài vô tư khách quan tại phiên tòa lại trở thành người xét hỏi chính, thậm chí đôi khi còn mang tính dồn ép theo hướng kết tội, Thẩm phán xét hỏi không khác gì đang buộc tội bị cáo, còn Kiểm sát viên lại hoàn toàn thụ động trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Chính vì BLTTHS chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của Tòa án và Viện kiểm sát khiến cho vai trò của hai bên còn có sự không thống nhất, trộn lẫn vào nhau. Thực tiễn xét xử hiện nay, trách nhiệm tìm sự thật của vụ án đã đặt lên vai Tòa án và khi Tòa án chỉ buộc tội mà không làm tròn trách nhiệm chứng minh thì Tòa án phải thay Viện kiểm sát. Tòa án cũng phải hỏi, phải xử nếu không thì vụ án sẽ bế tắc. Đây chính là những bất cập, vướng mắc hiện nay đối với vai trò và trách nhiệm của các Thẩm phán.

3. Một số kiến nghị.

Để khắc phục được tình trạng bất hợp lý như đã nêu trên theo tôi cần phải có sự sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện BLTTHS. Mặc dù hiện nay, mô hình tố tụng hình sự của Việt Nam chưa phải là mô hình tố tụng tranh tụng, song cũng không hẳn là mô hình tố tụng thẩm vấn. Mà thực tiễn hiện nay mô hình tố tụng của Việt Nam đang có sự pha trộn giữa mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn. Để thực sự nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự hiện nay cần phải có sự sửa đổi bổ sung như sau:

Thứ nhất: Cần bỏ quy định nghĩa vụ chứng minh đối với Tòa án là cần thiết, cần xác định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử, không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, Tòa án bảo vệ pháp luật thông qua chức năng xét xử chứ không phải thông qua chức năng chứng minh tội phạm, để Thẩm phán có đủ điều kiện làm tốt vai trò của người “trọng tài” tại phiên tòa, đưa ra được những phán quyết khách quan, bảo đảm công bằng theo đúng tinh thần của cải cách tư pháp.

Thứ hai: Cần bỏ quy định Hội đồng xét xử có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự như quy định  tại Điều 104. Quy định như vậy theo tôi là không phù hợp, vì khi Hội đồng xét xử khởi tố vụ án hình sự thì kết quả như thế nào, phụ thuộc hoàn toàn vào Cơ quan điều tra và quyền truy tố của Viện kiểm sát, dễ dẫn đến trường hợp Hội đồng xét xử khởi tố oan, sai. Giả sử có đúng thì cũng không phù hợp vì Tòa án không có chức năng điều tra, chỉ dựa vào diễn biến của phiên tòa để khởi tố là chưa bảo đảm tính khách quan, dễ dẫn đến trường hợp “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Cần xem xét, nghiên cứu lại chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán theo hướng tập trung vào hoạt động xét xử bảo đảm tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa, có như vậy mới nâng cao được vị thế của Thẩm phán cũng như hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.

Thứ ba: Cần bỏ quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại Điều 179 và 199 BLTTHS, vì thực tiễn hiện nay có những vụ án, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát không chấp nhận, Tòa án vẫn phải đưa vụ án ra xét xử và kiến nghị trong bản án, như vậy rất mất thời gian không cần thiết. Như trên đã phân tích, nếu quy định Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử và không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm thì việc chứng cứ trong vụ án đã đủ hay chưa, có thể xét xử được hay không, chứng cứ nào là quan trọng của vụ án phải là sự quan tâm và chứng minh của Viện kiểm sát chứ không phải là Tòa án. Nếu Viện kiểm sát không chứng minh được thì đầy đủ các chứng cứ buộc tội thì Tòa án sẽ tuyên bị cáo không phạm tội. Có như vậy ngoài việc nâng cao vị thế của Thẩm phán thì cũng là điều kiện để các Điều tra viên, Kiểm sát viên chú ý hơn đến nghiệp vụ chuyên môn trong hoạt động tiến hàn tố tụng hình sự, tránh việc ỷ lại nhau như hiện nay hoặc có tư tưởng quyền anh, quyền tôi trong hoạt động tố tụng.

Thứ tư: Cần sửa đổi các quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa trong các quy định hiện hành, theo hướng quy định: Chỉ các bên buộc tội  (Viện kiểm sát, người bị hại), bên gỡ tội (người bào chữa và bị cáo) mới tham gia vào thủ tục xét hỏi và tranh tụng. Quy định như vậy sẽ thể hiện rõ bản chất của thủ tục xét hỏi, chính là cách thức chứng minh bằng các chứng cứ sự tồn tại hoặc không tồn tại, của những sự kiện, tình tiết cụ thể của vụ án, vì chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của bên buộc tội và chứng minh không phải phải là tội phạm thuộc về bên bào chữa (Bên buộc tội và bên gỡ tội là chủ thể của tranh tụng) còn Tòa án không phải là bên tranh tụng mà chỉ là điều khiển phần tranh tụng. Do vậy, không nên chú trọng tham gia vào quá trình xét hỏi.

 


In Trang | Đóng cửa sổ