URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=305002002&p_details=1
 
Một số vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại toà án
19/09/2023-04:24:00 AM
 
 Tóm tắt

TS. Hoàng Văn Toàn – Phó trưởng phòng Đào tạo và Khảo thí

Tóm tắt: Trong phạm vi chuyên đề, tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án. Đồng thời tác giả cũng phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án ở Việt Nam hiện nay.

Từ khoá: Áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án, Luật xử lý vi phạm hành chính.

 

1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án

1.1. Khái niệm áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án

Khoa học lý luận nhà nước và pháp luật ở Việt Nam được hình thành và phát triển nhằm cung cấp kiến thức pháp lý cơ bản, làm nền tảng để tiếp cận, nghiên cứu và phát triển các khoa học pháp lý chuyên ngành khác. Khái niệm vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý và mối quan hệ giữa chúng đã được khoa học lý luận nhà nước và pháp luật xây dựng và phát triển.

Để dần loại bỏ hiện tượng vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm hành chính nói riêng chúng ta cần cần hiểu rõ bản chất, những đặc điểm (dấu hiệu) của nó, từ đó tìm cách loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện đã sinh ra nó. Nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm phạm luật hành chính và trách nhiệm hành chính nói riêng có ý nghĩa rất lớn trong việc đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong xã hội trong từng giai đoạn lịch sử xã hội cụ thể của mỗi quốc gia.

Khái niệm vi phạm hành chính ở nước ta lần đầu tiên được đề cập trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính[1]. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995, 2002 không đưa ra khái niệm về vi phạm hành chính, tuy nhiên có đề cập đến vấn đề này: “1 Xử lý vi phạm hành chính nói trong Pháp lệnh này bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác; 2 Xử phát vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.”[2]

“1. Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác; 2. Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.”[3]

Luật xử lý vi phạm 2012 lại đưa ra khái niệm về vi phạm hành chính, cụ thể: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.[4]

Bên cạnh các khái niệm về vi phạm hành chính được đề cập trong các quy định của pháp luật thì các giáo trình, sách tham khảo về lý luận nhà nước và pháp luật đã xây dựng khái niệm vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm hành chính nói riêng:

Vi phạm pháp luật là hiện tượng xã hội, tệ nạn trong xã hội, là những hành vi phản ứng tiêu cực của các chủ thể (cá nhân, pháp nhân) trái với ý chí nhà nước được quy định trong pháp luật. Những hành vi có tính chất tiêu cực gây hại cho nhà nước, xã hội và nhân dân, do vậy cần lên án, đấu tranh loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. [5]

Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”[6]

Theo các quy định của pháp luật cũng như các giáo trình, sách tham khảo về lý luận nhà nước và pháp luật đã xây dựng khái niệm vi phạm pháp luật pháp luật hành chính tương đối thống nhất như sau: “vi phạm pháp luật hành chính là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong những giai đoạn lịch sử xã hội nhất định”.

Như vậy, một hành vi bị coi là vi phạm pháp luật hành chính phải đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu, trong đó dấu hiệu trái pháp luật đã bao gồm dấu hiệu xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Đây cũng là những yếu tố quan trọng trong cấu thành của vi phạm pháp luật bao gồm: chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Xét về nguyên tắc, chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật thì phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi được dự liệu ở bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật. Các biện pháp tác động mang tính bất lợi đó khi được áp dụng cho chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật được gọi là trách nhiệm pháp lý. Như vậy, về nguyên tắc, chủ thể vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp lý và ngược lại trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng cho chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.

Đặc điểm của vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của xã hội. Việc xác định vi phạm hành chính phải luôn gắn với những thời điểm lịch sử xã hội cụ thể. Vấn đề này phải được làm rõ cả về nhận thức, pháp luật thực định và việc áp dụng pháp luật. Bởi những hành vi này là hoạt động vật chất của con người trong xã hội, tính nguy hiểm của nó là có thực và phải luôn gắn với những giai đoạn lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, việc đánh giá hành vi, hậu quả của hành vi, tính nguy hiểm của hành vi cũng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Nhà nước, qua đó đưa ra những quy định để điều chỉnh.

Công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm hành chính nói riêng luôn là vấn đề được Nhà nước và xã hội quan tâm. Bởi đây là cơ sở để duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Lịch sử pháp luật xử lý vui phạm hành chính của nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn, với những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau. Trong mỗi giai đoạn đó Nhà nước đã ban hành văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và các biện pháp xử lí đối với loại vi phạm này, trong đó có Nghị định số 143/CP ngày 27/5/1977 của Chính phủ ban hành Điều lệ xử phạt vi cảnh, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002[7] và văn bản đang có hiệu lực pháp lí thi hành là Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 (Luật số 15/2012/QH13 đã được sửa đổi bổ sung năm 2020)[8]. Bên cạnh Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các nghị định quy định cụ thể về việc xử lí các vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính nhà nước.

Về phương diện lí luận cũng như thực tiễn, định nghĩa vi phạm hành chính phải phản ánh được những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm này đồng thời cũng phải thể hiện được sự khác biệt giữa chúng với tội phạm. Như vậy, các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau về những dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Khái quát những dấu hiệu bản chất đó, khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã trực tiếp đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính, theo đó “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.

Có nhiều cách khái niệm khác nhau về trách nhiệm. Trong lĩnh vực pháp lí, thuật ngữ "trách nhiệm" cũng được sử dụng theo hai nghĩa, cụ thể:

Thứ nhất, theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ, ví dụ theo quy định tại Điều 7, luật Đất đai 2013 quy định: Điều 7. Người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất

1. Người đứng đầu của tổ chức, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối với việc sử dụng đất của tổ chức mình.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với việc sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích công ích; đất phi nông nghiệp đã giao cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) để sử dụng vào mục đích xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân, các công trình công cộng phục vụ hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí, chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và công trình công cộng khác của địa phương.

Như vậy, trách nhiệm có thể được hiểu theo nghĩa chủ thể mà pháp luật quy định trong những hoàn cảnh cụ thể phải làm, phải thực hiện…

Thứ hai, “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả bất lợi cá nhân, tổ chức phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật. Đó là sự áp đặt ý chí của các cơ quan quyền lực nhà nước nhằm lên án, răn đe, phòng ngừa đối với chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội.

Chúng tôi tiếp cận và và nghiên cứu sâu về trách nhiệm pháp lí theo nghĩa hậu quả bất lợi đối với các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính và phải chịu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa thứ hai.

Các chủ thể khi thực hiện các hành vi khác nhau trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội… trong những trường hợp cụ thể có thể vi phạm ( xử xự không đúng theo các quy định của pháp luật hành chính). Do đó, khi tổ chức hay cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hành chính, thì phải chịu những hậu quả bất lợi mà pháp luật hành chính quy định. Việc quy định trách nhiệm hành chính có ý nghĩa quan trọng đối với việc răn đe, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật hành chính, đảm bảo cho sự ổn định và pháp triển của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Việc quy định trách nhiệm hành chính, áp dụng pháp luật buộc các chủ thể vi phạm hành chính gánh chịu hậu quả pháp lý nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm phạm đồng thời giáo dục tổ chức, cá nhân vi phạm cũng như toàn thể cộng đồng ý thức tuân thủ pháp luật.

Trong khoa học pháp lí, thuật ngữ “trách nhiệm pháp lí”, “ Trách nhiệm hành chính” nói riêng của tổ chức, cá nhân thường được hiểu là hậu quả pháp lí bất lợi mà Nhà nước buộc tổ chức, cá nhân phải gánh chịu khi họ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Hậu quả pháp lí bất lợi mà tổ chức, cá nhân vi phạm phải gánh chịu thể hiện ở việc họ bị buộc phải thực hiện các biện pháp chế tài đã được quy định trong pháp luật. Tương ứng với mỗi loại vi phạm pháp luật là một hình thức trách nhiệm pháp lí nhất định. Trách nhiệm hành chính được đặt ra đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.

Tuy nhiên, bản thân trách nhiệm pháp lí không phải là sự cưỡng chế mà chỉ là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định. Như vậy, trách nhiệm pháp lí là sự bắt buộc chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định.

Trách nhiệm pháp lí tuỳ từng cách tiếp cận khác nhau có thể phân chia thành các loại khác nhau, hiện nay chúng ta thường chia thành các loại như: trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm vật chất, trong đó: (i) Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lí nghiệm khác nhất do toà án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội; (ii) Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lí do các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm hành chính; (iii) Trách nhiệm kỉ luật là loại trách nhiệm pháp lí do thủ trưởng các cơ quan, tổ chức của nhà nước áp dụng đối với cán bộ, công chức... của cơ quan, tổ chức của mình khi họ vi phạm pháp luật; (iv) Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lí do toà án hoặc các chủ thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vị phạm dân sự; (v) Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lí do các cơ quan, xí nghiệp... áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân... của cơ quan, xí nghiệp trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp.

Để bảo đảm sự công bằng và tính hiệu quả trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với các trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lí.

Vì vậy, nói khái quát, trách nhiệm hành chính là hậu quả pháp lí bất lợi mà nhà nước buộc các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính phải gánh chịu. Trách nhiệm hành chính có các đặc điểm sau đây:

Một là, trách nhiệm hành chính là hình thức trách nhiệm pháp lí đặt ra đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.

Về mặt nguyên tắc, trách nhiệm hành chính chỉ đặt ra đối với các chủ thể vi phạm pháp luật hành chính. Vì vậy, để tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính đối với một cá nhân tổ chức cần đánh giá một cách toàn diện hành vi của cá nhân đó trong thực tế trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, đối chiếu với các quy định của pháp luật hành chính để đánh giá xem hành vi đó có vi phạm không. Nếu vi phạm thì vi phạm tại điểm, khoản, điều nào? Trình tự thủ tục xử lý như thế nào?  Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính…Trách nhiệm hành chính không đặt ra đối với các tổ chức, cá nhân không vi phạm hành chính. Truy cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính thực chất là việc áp dụng các hình thức, biện pháp xử phạt, biện pháp xử lý hành chính đối với các chủ thể vi phạm pháp luật hành chính.

Chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hành chính buộc phải thực hiện các biện pháp chế tài hành chính do người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính quyết định. Chế tài hành chính áp dụng đối với chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hành chính là những biện pháp buộc những đối tượng này phải chịu những hạn chế về quyền, tài sản hoặc tự do…

Hai là, Nhà nước là chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật để buộc cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật hành chính phải gánh chịu hậu quả pháp lý khi vi phạm pháp luật hành chính.

Chủ thể của vi phạm hành chính đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước do Nhà nước thiết lập trong các lĩnh vực cụ thể sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính. Nhà nước buộc tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi để bảo vệ trật tự quản lý hành chính nhà nước mà mình đã thiết lập ra. Trình tự thủ tục để buộc các chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm hành chính phải được tiến hành chặt chẽ theo quy định của pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm hành chính với trách nhiệm dân sự. Trong trách nhiệm dân sự, việc phải thực hiện các biện pháp chế tài của tổ chức, cá nhân bị truy cứu trách nhiệm dân sự là nghĩa vụ của họ trước một tổ chức, cá nhân cụ thể có các quyền, lợi ích dân sự bị xâm hại.

Ba là, việc truy cứu trách nhiệm hành chính được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật, biểu hiện ở những nội dung cụ thể dưới đây:  (i) Về chủ thể tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính là những người được trao thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính trước hết và chủ yếu là những người có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính còn được trao cho thẩm phán Toà án nhân dân. (ii) Truy cứu trách nhiệm hành chính phải bảo đảm đúng với tính chất mức độ và hậu quả của hành vi, đặc điểm của chủ thể (có thể là nhân thân của người vi phạm), các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ lựa chọn và áp dụng đúng pháp luật các biện pháp chế tài hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.  (iii) Truy cứu trách nhiệm hành chính được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Truy cứu trách nhiệm hành chính tác động trực tiếp đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan. Thủ tục này đòi hỏi người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính phải thực hiện các công việc theo đúng trình tự về thời gian, không gian nhằm đảm bảo có đầy đủ các căn cứ cần thiết để tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính một cách nhanh chóng, kịp thời trong thời hạn pháp luật quy định.

Bốn là, trách nhiệm hành chính được cụ thể hoá thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền ban hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.

Trong đó xử phạt hành chính  là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.[9]

Hiện nay các hình hình thức xử phạt hành chính được quy định rất cụ thể từ điều 21 đến điều 27, luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung năm 2020, bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính); Trục xuất.[10]

Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:  Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;  Buộc phá dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật; Các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định.[11]

Vi phạm hành chính là loại vi phạm xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội. Mặc dù, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thấp hơn tội phạm quy định trong Bộ Luật hình sự nhưng vi phạm hành chính vẫn gây thiệt hại hoặc đe dọa lớn đến lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu không được ngăn chạy, xử lý kịp thời. Do đó, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được ra đời với nhiệm vụ chính là giúp nhà nước quản lý đời sống xã hội một cách hiệu quả với việc định ra các nguyên tắc đặc thù.

Một trong các phạm vi điều chỉnh của Luật xử lý vi phạm hành chính là áp dụng biện pháp xử lý hành chính bên cạnh xử phạt hành chính. Vậy, định nghĩa thế nào, đặc điểm.

Định nghĩa biện pháp xử lý hành chính

Khoản 2, Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:

Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Như vậy, hiểu một cách đơn giản thì biện pháp xử lý hành chính là biện pháp tước hoặc hạn chế tự do do cơ quan hành chính quyết định áp dụng đối với cá nhân chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo trình tự, thủ tục hành chính nhằm đích giáo dục và răn đen.

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm; áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án là việc Toà án áp dụng pháp luật tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do đối với cá nhân chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo trình tự, thủ tục hành chính nhằm đích giáo dục và răn đe.”

1.2  Đặc điểm áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án

Thứ nhất, biện pháp xử lý hành chính được áp dụng đối với cá nhân khi có nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc không có vi phạm hành chính

Khác với xử phạt hành chính, chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm quy định trong hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý hành chính thì việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính lại chỉ áp dụng đối với cá nhân khi có nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc không có vi phạm hành chính. Bắt nguồn từ bản bản chất của hoạt động này là nhằm mục đích răn đe, định hướng hành vi con người và hy vọng có thể uốn nắn, cho họ trở thành người có ích cho xã hội. Giới hạn của biện pháp xử lý hành chính rất hẹp khi áp dụng với những cá nhân có nhiều lần vi phạm hành vi vi phạm hành chính về an ninh, trật tự. an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Thứ hai, Thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính thuộc về cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan tư pháp

Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2013, sửa đổi bổ sung ngày 13 tháng 11 năm 2020. Riêng các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do TAND xem xét, quyết định thì có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2014. So với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì Luật Xử lý vi phạm hành chính có nhiều quy định mới về hình thức xử lý, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, thủ tục xử phạt và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cũng như mức xử phạt. Và một trong những điểm mới quan trọng của Luật Xử lý vi phạm hành chính là quy định về các biện pháp xử lý hành chính do TAND xem xét, quyết định.

Theo quy định tại Phần thứ ba của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì có 4 biện pháp xử lý hành chính, bao gồm: biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong đó, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Xét về bản chất thì các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án xem xét, quyết định áp dụng nêu trên là những biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền của người chưa thành niên. Người bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính này ít nhiều bị hạn chế tự do và một số quyền khác. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp này cần phải được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công khai, bảo đảm khách quan, chính xác theo đúng tinh thần “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người” đã được khẳng định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.

Nếu như, việc áp dụng các hình thức xử phạt thuộc về những người có thẩm quyền như các bộ, ban ngành quản lý trực tiếp và gián tiếp trong từng hoạt động cụ thể được Nhà nước trao quyền thì với biện pháp xử phạt hành chính chính thuộc về cơ quan hành chính nhà nước như: Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn với biện pháp giáo dục thường xuyên tại xã, phường, thị trấn và cơ quan tư pháp là Tòa án nhân dân đối với biện pháp hạn chế tự do, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Hầu hết, các đối tượng áp dụng những biện pháp này thường chủ yếu là những người chưa thành niên, đặt dưới sự giám sát của chính quyền địa phương, chỉ họ mới là người nắm rõ được bối cảnh, nhân thân và các hoạt động của những đối tượng này và hạn chế ảnh hưởng đến mọi người xung quanh cho nên mới phải áp dụng các biện pháp hạn chế quyền tự do.

Thứ ba, Đối tượng áp dụng chỉ với cá nhân và công dân Việt Nam

Khác với biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước thì đặc trưng của hoạt động này là chỉ áp dụng với cá nhân trong nước và không áp dụng đối với người nước ngoài.

Các biện pháp xử lý hành chính bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về cơ bản chỉ có thể áp dụng được với người Việt Nam. Bởi vì đối với người nước ngoài, họ là chủ thể đặc biệt, là người có quốc tịch của một quốc gia khác đang lao động, học tập, công tác, sinh sống trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ có tư cách pháp lý và được Việt Nam bảo hộ quyền, đồng thời với các hành vi của họ sẽ có đại sứ quán của nước họ mang quốc tịch quản lý. Tránh ảnh hưởng đến quyền của cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và ảnh hưởng quan hệ ngoại giao thì biện pháp này chỉ được áp dụng với công dân Việt Nam

Thứ tư, Thủ tục thực hiện hoàn toàn do cơ quan hành chính nhà nước tiến hành hoặc do cơ quan hành chính nhà nước tiến hành một phần và có sự tham gia của cơ quan tư pháp.

Các quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính được giao cho các cơ quan có chức năng thi hành. Các biện pháp mang tính chất giáo dục tại cộng đồng được giao cho cơ quan, tổ chức tại cộng đồng để tổ chức thực hiện hiện sự điều phối của cơ quan hành chính ở cấp cơ sở. Các biện pháp hạn chế tự do được thực hiện tại các cơ sở riêng biệt, được quản lý chặt chẽ hơn.

Bên cạnh đó, về hậu quả pháp lý, việc tiến hành áp dụng các biện pháp căn cứ vào nhân thân và quá trình vi phạm của cá nhân đó. Do mục đích chính là giáo dục và phòng ngừa xảy ra hành vi vi phạm tiếp theo. Hậu quả pháp lý đối với biện pháp này là mang tính giáo dục là chính thì chung quy lại đều mang tính hạn chế tự do của người vi phạm, thời gian từ 6 tháng đến 24 tháng. Một điểm cần lưu ý rằng, việc áp dụng các biện pháp giáo dục thường xuyên tại xã, phường, thị trấn lại là điều kiện để áp dụng các biện pháp hạn chế tự do, do đó, hậu quả pháp lý của biện pháp này là nếu vẫn còn tiếp tục vi phạm thì có thể sẽ bị áp dụng các biện pháp hạn chế tự do.

Thủ tục áp dụng bởi cơ quan tư pháp là Tòa án nhân dân đối với biện pháp hạn chế tự do, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Các yếu tố cơ bản tác động đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án

2.1. Yếu tố chính trị

Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 4/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan, ngày 12/3/2014 Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 92- KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49- NQ- TW trong đó nhấn mạnh “tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp nêu trong Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX vẫn còn phù hợp” và lưu ý nghiên cứu “hoàn thiện cơ chế tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp”, “chuẩn bị những nội dung có liên quan đến việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2020”. Như vậy, những định hướng cải cách tư pháp của Nghị quyết số 49 - NQ/TW đã tác động rất lớn đến thực tiễn và trọng tâm của việc thực hiện cải cách đến năm 2020 là việc đổi mới, kiện toàn tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp, hoạt động của Thẩm phán. Điều này tác động trực tiếp đến các chính sách, chất lượng hoạt động của hệ thống Toà án nói chung, đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án nói riêng.

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới chỉ rõ Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Ðảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Nghị quyết cũng chỉ ra mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ, trọng tâm. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết cũng chỉ rõ tại phần mục têu cụ thể đến năm 2030: “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch; bảo đảm Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội; phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương; cơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.”, “ Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.”, “ Tổ chức bộ máy nhà nước cơ bản tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư.

Tóm lại, chủ chương đường lối của Đảng nói chung, quan điểm cũng như mục tiêu trong nghị quyết 27 nói riêng tác động trực tiếp đến việc xây dựng chính sách, xây dựng pháp luật và xây dựng đội ngũ thẩm phán ảnh hưởng tác động đến hiệu quả của việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án về cả quy định của pháp luật, áp dụng pháp luật, chất lượng đội ngũ Thẩm phán.

2.2. Quy định của pháp luật

Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, từ năm 2014 đến nay hàng loạt văn bản pháp luật quan trọng được ban hành như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viên kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH13 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, Pháp lệnh 03/2022/UBTVQH15 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân 2022… Các văn bản pháp luật này đã sửa đổi một cách toàn diện các bộ luật, luật liên quan được ban hành trước đó thể hiện những định hướng cải cách mạnh mẽ cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp theo hướng ngày càng tiến bộ, thể hiện xu hướng dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng và tư tưởng tôn trọng, bảo vệ quyền con người nói chung, trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án nhân dân nói riêng.

Quy định của pháp luật là yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp đến hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền, đến đối tượng và các chủ thể có liên quan đến việc áp dụng biện pháp hành chính tại Toà án. Pháp luật có về áp dụng biện pháp hành chính sẽ quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là biện pháp xử lý hành chính); trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại; khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong việc áp dụng biện pháp x lý hành chính. Do vậy, pháp luật về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án là yếu tố cơ bản, quan trong tác động trực tiếp đến hoạt động áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án. Một số nội dung quan trọng thể hiện sự tác động của pháp luật đối với hoạt động áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, pháp luật còn quy định về thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án. Hiện nay, pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án Với thẩm quyền xem xét, thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính của Tòa án nhân dân là: Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trụ sở cơ quan của người đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bị đề nghị có hành vi vi phạm trong trường hợp người đề nghị là Trưởng Công an cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh theo quy định tại khoản 2 Điều 99, khoản 1 Điều 100, khoản 2 Điều 101, khoản 1 Điều 102 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền xét lại quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị

Thứ hai, khi xem xét, quyết định áp dụng biện pháp hành chính, bên cạnh việc bảo đảm các nguyên tắc theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính còn phải bảo đảm các nguyên tắc khác như: quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị; quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình; quyền được xem xét theo hai cấp; được tham gia, trình bày ý kiến trước Tòa án, tranh luận tại phiên họp; việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính do 01 Thẩm phán thực hiện. Khi xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Bên cạnh đó việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải tuân thủ các quy định những nguyên tắc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng phải bảo đảm tính đặc thù, phù hợp với người chưa thành niên như: trình tự, thủ tục phải tiến hành nhanh chóng, kịp thời; bảo đảm thủ tục thân thiện, phù hợp với tâm lý, giới, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của họ; người chưa thành niên mà không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Tòa án yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý hoặc Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Thứ ba, về kiểm sát việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, pháp lệnh quy định việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp thực hiện kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của Tòa án nhân dân, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo đảm việc giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Viện kiểm sát cả quyền nghiên cứu hồ sơ vụ việc tại Tòa án đã thụ lý, có quyền sao chụp hồ sơ vụ việc đó và tham gia các phiên họp; tham gia việc xét hoàn, miễn, giảm, tạm đinh chi việc chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Thứ tư, pháp luật quy định chi phí, lệ phí trong việc xem xét, quyết đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chi phí trong việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, gồm: chi phí cho người phiên dịch, người dịch thuật; chi phí cho Luật sư. Trợ giúp viên pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị, chi phí giám định, chi phí sao chụp tài liệu và các khoản chi phí khác theo quy định của pháp luật; và được thực hiện theo quy định của pháp luật về chi phí tố tụng. Bên cạnh đó cũng quy định việc chi trả chi phí, lệ phí thực hiện như: Chi phí cho người phiên dịch, người dịch thuật, luật sư, trợ giúp viên pháp lý nếu người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên tự yêu cầu thì họ tự chi trả; nếu do Tòa án yêu cầu thì Tòa án chi trả. Chi phí cho trợ giúp viên pháp lý, luật sư do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử thì thực hiện theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.

Như vậy có thể khẳng định các quy định pháp luật như nêu trên đã, đang và sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động áp dụng biện pháp xử lý hành hành tại Toà án theo hướng yêu cầu ngày một chuyên nghiệp, cẩn trọng hơn, đảm bảo quyền con người, quyền công dân của các đối tượng bị áp dụng.

2.3. Hội nhập quốc tế

Việt Nam hiện nay, đã và đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên cơ sở “nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”[12]. Quan điểm đó được nhận thức ngày càng hoàn thiện qua từng giai đoạn khác nhau và thể hiện qua các kỳ đại hội. Việt Nam khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”[13].

Qua các nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh tới “toàn cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI của Đảng (năm 2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức về “toàn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại hội XI nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”[14]. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”[15]. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...[16].

Trên cơ sở nhận thức về toàn cầu hóa, Việt Nam từng bước tiến hành hội nhập quốc tế. Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”[17]. Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiến thêm một bước trong nhận thức và hành động hội nhập quốc tế; đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”[18]. Đến Đại hội XI của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”[19].

Qua đó có thể khẳng định, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những yêu cầu mới về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND. Trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh chấp, tội phạm xuyên quốc gia… Ngoài những vụ việc có tính chất phổ biến hiện nay, thì ngày càng xuất hiện những vụ việc có tính chất phức tạp trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tranh chấp thương mại quốc tế… Do đó, vấn đề cấp bách của hệ thống Tòa án trong quá trình hội nhập hiện nay là hệ thống Tòa án phải có được nguồn nhân lực đảm nhiệm các chức danh tư pháp trong hệ thống Tòa án, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu giải quyết những tranh chấp quốc tế, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm xuyên quốc gia, các loại hình tội phạm phi truyền thống, trong đó có đội ngũ Thẩm phán áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án… góp phần ổn định và phát triển đất nước trong tình hình mới.[20]

Những nội dung đã nêu trên tác động trực tiếp viêc xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật nói chung của hệ thống Toà án nhân dân, trong đó có việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án.

2.4. Chất lượng đội ngũ Thẩm phán

Đội ngũ Thẩm phán được xem là yếu tố cốt lõi, quyết định chất lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND nói chung, việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án nói riêng. Đội ngũ Thẩm phán có trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà hệ thống TAND đề ra trong các giai đoạn phát triển của xã hội. Vì vậy, việc đào tạo và phát triển đội ngũ Thẩm phán cần được ưu tiên hàng đầu. Nếu số lượng, chất lượng đội ngũ Thẩm phán của Toà án hạn chế về năng lực, đạo đức, bản lĩnh chính trị thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Toà án nói chung, đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nói riêng.

Mặt khác, chế độ chính sách đối với cán bộ Toà án nói chung, đội ngũ thẩm phán nói riêng cũng cần phải được xây dựng và đi vào thực tiễn để đảm bảo tương xứng với tính chất công việc nên đời sống cán bộ hệ thống Toà án nhân dân. Cùng với đó là chế độ chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng nhân lực, nhân tài cho hệ thống Toà án như việc tuyển dụng, bổ nhiệm bổ nhiệm đội ngũ thẩm phán có trình độ, năng lực vào công tác trong ngành, đặc biệt là những nơi vùng sâu, vùng xa thiếu nguồn tuyển dụng cán bộ, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án

Có thể khẳng định, thực tiễn khách quan cho thấy rằng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án. Nếu trình độ nghiệp vụ của thẩm phán tốt là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án. Ngược lại, nếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán còn yếu, ít kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ non thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án. Bên cạnh đó các yếu tố như đạo đức, bản lĩnh chính trị, tâm lý, kiến thức về xã hội…của đội ngũ thẩm phán cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án nói riêng./.



[1] Điều 1, Pháp lệnh số 28-LCT/HĐNN8 của Hội đồng nhà nước ngày 07 tháng 12 năm 1989 về xử lý vi phạm hành chính

[2] Điều 1, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995

[3] Điều 1, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002

[4] Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung 2020

[5] Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật,  NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2015, tr.205

[6] Giáo trình Luật Hành chính,  NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017, tr.337

[7] Một số quy định của Pháp lệnh này đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH11 ngày 08/3/2007 sửa đổi một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Pháp lệnh số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02/4/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.

[8] Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2013, riêng đối với các quy định liên quan đến các biện pháp xử lý hành chính do tòa án nhân dân xem xét, quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.

[9] Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung năm 2020

[10] Điều 21, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung năm 2020

[11] Điều 28, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung năm 2020

[12] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.59-60.

[13] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.617, 664.

[14] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.28.

[15] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.18, 79, 155-156.

[16] Nguyễn Phú Trọng: “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng”, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang)

[17] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.617, 664.

[18] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112.

[19] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XISđd, tr. 235-236, 72, 83-84.

[20] TS. Hoàng Văn Toàn, ‘………………….’, Tạp chí Toà án, số 13, 2021


In Trang | Đóng cửa sổ