URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=129206895&p_details=1 | ||
Một số vấn đề về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam (Phần 2) | ||
12/11/2015-01:29:00 PM | ||
Thực tiễn xã hội và pháp lý ở Việt Nam cho thấy, việc công nhận và bảo vệ quyền
của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình là mục tiêu và nguyên tắc cơ bản,
nhất quán trong chính sách về gia đình của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước mà trong đó mọi hoạt động của nó
phải hướng đến việc bảo đảm quyền con người được tôn trọng và thực thi đầy đủ
trong thực tiễn đời sống xã hội. Điều 26 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013
khẳng định nguyên tắc bình đẳng về giới:
“1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền
và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,
phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
Đồng thời, Điều 36 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định về quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực hôn nhân gia đình, cụ thể:
“1.
Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.”
Trên cơ sở Hiến pháp, các quyền cơ bản của công dân nói chung và phụ nữ nói
riêng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã dược cụ thể hóa trong các đạo luật
đồng thời tạo ra các công cụ bảo vệ các quyền đó như Bộ luật dân sự, Luật Hôn
nhân và Gia đình, Luật đất đai, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ
luật tố tụng dân sự…
Trong các định hướng của Đảng về cải
cách các hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung, cải cách hệ thống cơ quan tư pháp
nói riêng, quyền của
phụ nữ được công nhận và bảo hộ chính thức bằng hệ thống các nghị quyết của Đảng
cộng sản Việt Nam như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020”; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011),
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011 - 2020 xác định mục tiêu tổng quát:“đến
năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự
tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội”. Hiện nay, Việt Nam đã có những chính sách khá đầy đủ và một hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Trong đó, ngành luật cơ bản điều chỉnh, bảo vệ quyền lợi một cách cụ thể, xác đáng cho người phụ nữ cũng như sự bình đẳng giữa vợ và chồng là Luật hôn nhân và Gia đình. Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 2, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Với những điểm mới, sửa đổi, bổ sung quan trọng phù hợp với thực tiến đời sống kinh tế - xã hội, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 vừa được ban hành đã kịp thời đáp ứng các yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và gia đình trong tình hình mới. Đồng thời, góp phần bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới.
2.
Một vài suy nghĩ về hoạt động của
Tòa án với việc bảo vệ quyền của người phụ nữ khi ly hôn
Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2014 quy định ly hôn là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án.
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, trong trường hợp ly hôn xảy ra, khi Toà án
xét xử cho ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý về quan hệ nhân thân của vợ
chồng, chế độ tài sản của vợ chồng, việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn,
giao con chung cho ai là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, đóng góp phí tổn
nuôi dưỡng giáo dục con...Khi giải quyết các vụ việc ly hôn, Tòa án
phải
thực thi hoạt động của mình và ra phán quyết
cho thật hợp tình, hợp lý, bảo đảm quyền của phụ nữ
theo nguyên tắc “bình đẳng và ưu tiên”
đã được khẳng định trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, là cơ quan duy nhất
có quyền tuyên bố chấm dứt quan hệ hôn nhân và ra phán quyết về các vấn đề con
chung, tài sản, cấp dưỡng… là các hậu quả pháp lý gắn liền với sự kiện ly hôn;
việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn phụ thuộc rất lớn vào Tòa án. Theo số
liệu thống kê tổng hợp của Tòa án nhân dân tối cao, từ ngày 01/9/2000 đến ngày
30/9/2011, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 3.143.746 vụ việc dân sự, kinh
doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình. Trong đó số vụ
việc về hôn nhân và gia đình là 875.282, chiếm tỷ lệ 30% trong tổng số các vụ
việc dân sự đã thụ lý nói chung
[1],
đây là một con số tương đối lớn phản ánh khối lượng công việc mà Tòa án phải
giải quyết đối với lĩnh vực này. Qua gần 15 năm thực thi Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000, trong tổng số các vụ việc hôn nhân và gia đình Tòa án các cấp
giải quyết thì số lượng vụ việc ly hôn chiếm tỉ lệ lớn nhất. Mặc dù số lượng vụ
án tranh chấp ly hôn đưa ra xét xử không nhiều nhưng các vụ án đưa ra xét xử đều
mang tính phức tạp cao, liên quan đến nhiều quyền lợi quan trọng của các đương
sự trong vụ án. Nhìn chung, kết quả xét xử các vụ án ly hôn của tòa án thời gian
vừa qua đạt yêu cầu, bảo đảm quyền lợi chính đáng của đương sự. Tuy nhiên,
trong công tác giải quyết các vụ việc hôn
nhân và gia đình, đội ngũ cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân các cấp nhìn
chung chưa đủ về số lượng, một bộ phần còn bất cập về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và năng lực công tác. Thẩm phán còn gặp nhiều khó khăn trong giải
quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, dẫn tới chất lượng giải quyết nhiều vụ
việc về hôn nhân và gia đình còn chưa cao. Việc phát huy vai trò của các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền trong phối hợp giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia
đình hoặc trong công nhận, thực hiện và bảo vệ quyền về hôn nhân và gia đình của
người dân còn nhiều bất cập [2].
Mặt khác, hoạt
động giải quyết án ly hôn của Tòa án còn chịu sức ép về số lượng và thời hạn
giải quyết vụ án,
nhiều vụ án ly hôn đưa ra xét xử nhiều lần nhưng vẫn không giải quyết dứt điểm
là
những
trở ngại đối với việc
bảo đảm thực thi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ khi ly hôn.
Các sai sót, tồn tại xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu,
tập trung vào cả ba vấn đề khi giải quyết án ly hôn gồm: hôn nhân, con chung và
tài sản chung.
Thực
tế áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000
trong những năm qua cho thấy, mặc dù đã điều chỉnh có hiệu quả nhiều quan hệ về
hôn nhân và gia đình phát sinh trong thực tiễn, nhưng vẫn còn những hạn chế, bất
cập như: một số quy định liên quan đến thực hiện quyền con người, đặc biệt là về
bình đẳng giới còn mang tính hình thức, không thực chất và không khả thi; một số
vấn đề hôn nhân và gia đình chưa được luật quy định cụ thể hoặc không quy định.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 vừa được ban hành có nhiều điểm mới, tiến bộ
nhằm đảm bảo quyền con người nói chung và bảo đảm thực hiện quyền phụ nữ trong
quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng đặt ra yêu cầu cần được nghiên cứu, đề
xuất áp dụng trong thực tiễn.
Trên
cơ sở xem xét phù hợp
với các quy định của Hiến pháp mới 2013 và các điều ước quốc tế Việt Nam tham
gia,
cần cải tiến hoạt động giải quyết các vụ việc ly hôn của Tòa án trên cơ sở tôn
trọng, bảo vệ quyền của phụ nữ nhằm góp phần thực thi có hiệu quả
pháp luật về quyền con người, quyền công dân.
Tham khảo cơ cấu tổ chức và thực tiễn xét xử án hôn nhân và gia đình của các
nước cho thấy: hiện nay, nhiều nước thuộc các hệ thống luật khác nhau trên thế
giới đã thành lập Tòa án Gia đình là mô hình tòa án có vai trò tăng cường tính
chuyên môn đối với vụ án hôn nhân và gia đình. Theo đó, cơ cấu nhân sự của Tòa
án Gia đình có Điều tra viên đóng vai trò quan trọng trong việc điều tra sự thật
trong xét xử hôn nhân gia đình, cũng như liên kết với cơ quan phúc lợi xã hội,
đánh giá tâm lý, các công việc mang tính hỗ trợ. Thẩm phán Tòa án gia đình hoạt
động chuyên trách, được lựa chọn là những người có độ tuổi, kinh nghiệm nhất
định và có kiến thức về tâm lý học, xã hội học…Với mô hình Tòa án gia đình, hoạt
động giải quyết các vụ việc ly hôn
có tính chuyên môn cao, phán quyết của Tòa án được đưa ra trên cơ sở các bên
đương sự đã được tư vấn, hòa giải
bằng nhiều hình thức,
quyền lợi của các bên đương sự đều được xem xét, cân nhắc kỹ càng. Việt Nam đang
trong tiến trình nghiên cứu, chuẩn bị triển khai áp dụng mô hình Tòa án Gia đình
nên
hoạt động giải quyết án
ly hôn
của Tòa án cần tiếp tục được cải thiện nhằm tạo ra một cơ chế bảo đảm và thực
thi quyền phụ nữ khi ly hôn.
Trong hoạt động giải quyết tranh chấp ly hôn, Tòa án các nước có những quy định,
thủ tục và cách thức giải quyết khác với Việt Nam, trong đó có những nội dung
tiến bộ cần tham khảo, nghiên cứu áp dụng. Ví dụ, tại
Australia, điều kiện xét yêu cầu ly hôn là cuộc hôn nhân đã hoàn toàn đổ
vỡ, không thể cứu vãn được và phải ly thân ít nhất là 12 tháng trước khi nộp đơn
ly dị. Nếu kết hôn dưới 2 năm thì phải đi tư vấn về gia đình hoặc xin phép Tòa
trước khi nộp đơn ly dị. Còn ở Mỹ, đã có sự thay đổi lớn trong những đạo luật về
ly hôn theo chiều hướng chuyển từ những đạo luật mang tính hạn chế (thế kỷ XIX)
sang ly hôn không có lỗi (thế kỷ XX). Các bên chỉ đơn giản giải thích rằng có
những khác biệt không thể hòa giải giữa họ và rằng cuộc hôn nhân không còn giá
trị nữa. Tuy nhiên, thực tiễn ly hôn ở Mỹ cho thấy giải quyết những vấn đề như
tranh chấp về tài sản, tranh chấp về chăm sóc con, hỗ trợ tiền cho con, quyền
thăm nom con là những nội dung thường xuyên có bất đồng và Tòa án
phải
rất cẩn trọng khi đưa ra phán quyết nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự
nói chung và quyền lợi của người phụ nữ nói riêng. Ở Hàn Quốc, yếu tố lỗi được
xét đến khi có yêu cầu ly hôn,
người muốn thuận tình ly hôn phải được Tòa án gia đình hướng dẫn về ly hôn.
Trong trường hợp cần thiết, Tòa án gia đình có thể khuyến khích đương sự nhận hỗ
trợ tư vấn chuyên môn từ chuyên gia có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn. Bên
yêu cầu xác nhận ly hôn lên Tòa án gia đình có thể được xác nhận ly hôn sau một
thời gian cân nhắc. Trong thời gian cân nhắc, Tòa án tổ chức hoạt động nhằm hàn
gắn, hòa giải cho vợ chồng như tổ chức dã ngoại có con cùng tham gia, tư vấn tâm
lý. Trong trường hợp có lý do cấp bách như một bên đương sự phải chịu hành vi
bạo lực, có thể rút ngắn hoặc miễn thời gian cân nhắc. Trường hợp có sự tranh
chấp nuôi con khi ly hôn, Tòa án có những biện pháp giám sát, theo dõi thái độ,
nhu cầu của trẻ, đồng thời cử Điều tra viên điều tra về các điều kiện nuôi dậy
con để Tòa án có cơ sở quyết định giao con cho bố hay mẹ là người trực tiếp nuôi
dưỡng…Đây là những quy định, thủ tục có tính ưu việt nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của cả vợ và chồng khi ly hôn, đảm bảo sự bình đẳng và cũng đồng thời là bảo
vệ quyền của người phụ nữ khi ly hôn.
Trên cơ sở Tòa án
đưa ra
những quyết định, bản án thấu tình đạt
lý, bảo vệ quyền lợi
chính đáng
cho người phụ nữ sẽ giúp họ tự tin trước cuộc sống, tin tưởng rằng pháp luật
luôn bên cạnh họ, bảo vệ quyền lợi cho họ.
Như vậy, với những
phân tích
trên đây,
việc
bảo vệ quyền của phụ nữ khi
giải quyết các vụ việc ly hôn của Tòa án
là một việc vô cùng quan trọng, cần thiết và có ý nghĩa. Từ việc nghiên cứu
vấn đề, trao đổi thông tin nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền của phụ nữ
khi ly hôn, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án
trong việc bảo đảm thực thi quyền của phụ nữ trong thực tế là cơ sở của sự phát
triển và tiến bộ của xã hội.
| ||
In Trang | Đóng cửa sổ |