URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=129085908&p_details=1 | ||
Một số vấn đề về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam (Phần 1) | ||
11/11/2015-02:43:00 PM | ||
Phần I -
Một số vấn đề chung và sự cần thiết
bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam
Quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi
xã hội và mọi giai đoạn lịch sử.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc bảo vệ quyền con người nói chung và
quyền của phụ nữ nói riêng không chỉ là nghĩa vụ của nhà nước đối với người dân
mà còn là nghĩa vụ của một quốc gia trước cộng đồng quốc tế. Luật Hôn nhân và
Gia đình Việt Nam năm 2014 vừa có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 có rất
nhiều điểm mới phù hợp với Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn
quyền con người, bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ. Vì vậy, bài viết đề cập đến một
số vấn đề về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn nhằm nâng cao nhận thức và hiệu
quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, đặc biệt là khi họ rơi vào hoàn
cảnh hôn nhân tan vỡ.
Nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hôn
là mặt trái của quan hệ hôn nhân, phản ánh tình trạng hôn nhân đã thực sự tan vỡ.
Vấn đề đặt ra là, cần nhận thức thế nào về sự cần thiết bảo vệ quyền lợi chính
đáng của phụ nữ khi ly hôn và việc bảo đảm thực thi quyền đó trong thực tế. V.I
Lênin đã từng khẳng định
rằng nếu không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn cho phụ nữ và nếu thiếu quyền tự
do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với phụ nữ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói:
“Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng
chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”[1].
Khi xem xét việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn thì không thể tách rời việc
nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền con người của phụ nữ.
Theo Mác: "Quyền
con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con
người, là thành viên xã hội loài người"[2].
Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thường
xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền
con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép và tự do cơ bản của con người”[3].
Ở Việt Nam cũng đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này không hoàn toàn giống
nhau, nhưng tựu chung quyền con người thường được hiểu
“là những
năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên
cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế" [4].
Và tại Hội nghị thế giới về Quyền con người lần thứ hai tổ chức tại Viên (1993)
đã khẳng định: “quyền con người của phụ
nữ và trẻ em gái là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách rời của
các quyền con người phổ biến”. Như vậy, cho dù quyền con người có là bẩm
sinh, vốn có hay phải do nhà nước quy định thì để thực hiện các quyền con người
phải cần có pháp luật. Pháp luật là phương thức không thể thiếu và là công cụ
hiệu quả nhất của nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người. Theo đó, “bảo
vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng trước
hết phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật và phải bảo
đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một nhóm xã hội đặc biệt,
bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên cơ sở của những yếu
tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi nhận quyền phụ nữ dựa trên cơ sở
của vấn đề bình đẳng giới”[5].
Bảo vệ quyền của phụ nữ được ràng buộc
chặt chẽ bởi các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên,
như: Hiến chương Liên Hợp Quốc (1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người (1948, UDHR), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(1979, CEDAW),... Theo đó, việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình, kể cả khi ly hôn được nhấn mạnh và quy định rất cụ thể tại Điều 16
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ:
“1.
Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân
và quan hệ gia đình, cụ thể phải bảo đảm những quyền dưới đây, trên cơ sở bình
đẳng nam nữ:
a) Quyền kết hôn như nhau;
b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn và chỉ kết hôn khi
mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;
c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời gian hôn nhân cũng như
khi hôn nhân bị hủy bỏ;
d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất kể tình trạng hôn
nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con cái họ. Trong tất cả các
trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi là điều quan trọng nhất;...“
Dưới góc độ quyền phụ nữ cũng chính là quyền con người, Nhà nước cần phải thừa
nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền đó đúng như những điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên. Vì thế, hoạt động bảo vệ quyền con người của phụ
nữ phụ thuộc vào năng lực của các hệ thống cơ quan nhà nước mà trước hết là hệ
thống Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp…có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân”.
2. Sự
cần thiết bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam
Từ một số vấn đề chung về sự cần thiết bảo vệ quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình như trên, liên hệ thực tế có thể nhận thấy những lý do cơ
bản đặt ra yêu cầu cần thiết bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn ở
nước ta như sau:
Thứ nhất,
theo số liệu thống kê phụ nữ chiếm 51% dân số của cả nước, về lực lượng lao
động, phụ nữ cũng chiếm gần 50% và tham gia lao động trong hầu hết các lĩnh vực
[6].
Trong Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, đã xác định:“
Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, có những tiềm năng to lớn, là một động
lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển, kinh tế, xã hội. Phụ nữ vừa
là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con
người. Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống vật
chất tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam
nữ bình đẳng…”. Nhiều văn kiện và văn bản pháp luật quốc tế cũng đã xác định
và đề cao quyền của phụ nữ, coi đó như là một trách nhiệm của văn minh nhân loại.
Thứ hai,
phụ nữ có thiên chức sinh sản - là một thiên chức vô cùng cao quý trong việc duy
trì nòi giống của gia đình và toàn nhân loại. Với những đặc thù về giới tính,
phụ nữ là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương nhất, cần phải được quan
tâm và bảo vệ một cách đặc biệt. Trong thực tế giải quyết ly hôn, không hiếm
trường hợp người phụ nữ đã bị đe dọa, gây áp lực về tinh thần và vật chất từ
phía người chồng dẫn đến phải từ bỏ quyền ly hôn, quyền nuôi con của mình. Sau
khi ly hôn, việc ổn định cuộc sống là một vấn đề hết sức nan giải được đặt ra
với người phụ nữ. Bởi vì, khả năng tự lập của họ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi
những điều kiện khách quan và chủ quan của gia đình và xã hội.
Thứ ba,
mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của người phụ nữ trong xã hội nhưng những
tư tưởng lạc hậu, ăn sâu bám rễ từ thời phong kiến để lại về hôn nhân gia đình,
về giới, về tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
vẫn còn hiện diện trong gia đình Việt Nam hiện đại. Thực tế cho thấy, ở nông
thôn khoảng 80% chủ hộ là nam giới và đàn ông thường là người đứng tên sở hữu
những tài sản có giá trị lớn trong gia đình. Con gái khi đi lấy chồng không được
bố mẹ đẻ cho sử dụng đất nông nghiệp và cũng không được gia đình nhà chồng cho
đất mới. Và phụ nữ vẫn phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn, việc
nội trợ, nuôi dạy con, chăm sóc các thành viên gia đình của phụ nữ thường bị coi
là không có giá trị kinh tế.
Vì vậy, trong quan hệ hôn nhân gia đình và nhất là khi quan hệ đó chấm dứt, cần
phải mở ra một con đường cho người phụ nữ thoát khỏi hậu quả của sự bất bình
đẳng này, tránh việc họ lại phải chịu thêm thiệt thòi khi ly hôn.
Thứ tư,
tự do yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân của vợ chồng được pháp luật ghi nhận.
Tuy nhiên, trong thực tế việc thực hiện quyền nhân thân này của người phụ nữ còn
vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn từ phía gia đình, xã hội, và từ chính bản thân
người phụ nữ. Cũng có trường hợp, Tòa án đã không chấp nhận yêu cầu ly hôn của
họ, bởi đánh giá chủ quan của Thẩm phán khi giải quyết yêu cầu ly hôn còn phiến
diện dẫn đến hậu quả đau xót khi vợ chồng quay trở lại cuộc sống chung.
Thứ năm,
vấn đề xác định và chia tài sản của vợ chồng khi tranh chấp ly hôn là rất phức
tạp, với nhiều vụ ly hôn có khối tài sản tranh chấp trị giá hàng trăm nghìn tỷ
đồng. Nếu xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng không chính xác sẽ
dẫn đến cách giải quyết không đúng, không bảo vệ được quyền lợi của các đương sự,
nhất là đối với người phụ nữ. Bên cạnh đó, vấn đề xác định công sức đóng góp cho
người phụ nữ khi giải quyết ly hôn cũng là vấn đề khó khăn, phức tạp.
Từ những vấn đề nêu trên, việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi họ rơi vào hoàn cảnh
ly hôn là cực kỳ cần thiết, bởi vì phụ nữ được xác định
là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, cần được quan tâm đặc biệt. Khi
họ rơi vào hoàn cảnh ly hôn, hơn lúc nào hết, việc
bảo đảm thực thi quyền con người của phụ nữ trong thực tế là việc làm ý nghĩa
cho họ niềm tin vào công lý và giúp họ ổn định tinh thần, cuộc sống sau khi ly
hôn.
[1] Nxb.Chính trị Quốc gia (1989),
Hồ Chí Minh toàn tập,
t8, tr.498, Hà Nội.
[2] Nxb. Chính trị Quốc gia (1998), C.Mác
và Ph.Ăngghen - Về quyền con người, tr.14, Hà Nội.
[3]
United Nations, UNHCHR
(2006),
Freequently Asked Questions on a Human
Rights-based Approach to Development Cooperation,
tr.8,
New York and Geneva.
[4]
Học viện CTQG Hồ Chí Minh
(1993),
Tập bài giảng lý luận về quyền con người,
tr.10,
Nxb Sự thật, Hà
Nội.
[5]
Trích Bùi Thị Mừng
(2004),
Bảo vệ Quyền phụ nữ theo Luật Hôn
nhân và gia đình
Việt Nam
năm
2000,
Luận văn Thạc sĩ luật học,
Đại học Luật Hà Nội.
[6]
Xem:
Bình đẳng thật sự cho phụ nữ phải từ chính nội lực phụ nữ, trang Hội liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, cập nhật ngày 07/3/2015, đường link: | ||
In Trang | Đóng cửa sổ |