URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=126419150&p_details=1
 
Luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay (Kỳ 2 và hết)
23/10/2015-08:42:00 AM
 
 Luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam

(Kỳ 2 và hết)

Nguyễn Lâm

Khoa Thẩm phán - Học viện Tòa án

 

2. Vấn đề căn bản trong luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay

2.1. Tóm lược quá trình xây dựng luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam

Khi bàn đến luật pháp tôn giáo và nghiên cứu quá trình thực hiện vấn đề này, tác giả sẽ tạm thời phân kỳ ra thành 5 giai đoạn chính để thấy được những cái mới, những ưu, khuyết điểm trong lộ trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo dưới sự tác động trực tiếp của bối cảnh đất nước và xã hội.

2.1.1. Giai đoạn từ 1945 - 1954

“Trước tác” văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên mở đầu cho bước đường này là Bản thảo Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ngày 3/9/1945 trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong các nội dung cấp bách có hai nội dung đáng chú ý trực tiếp bàn về tôn giáo: “Vấn đề thứ ba: Tất cả các công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tín ngưỡng, dòng giống (nguyên văn giòng giống - tác giả đã sửa)”; Vấn đề thứ sáu: Thực dân phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương để dễ bề thống trị; tôi đề nghị chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”[1].

Ngay trong tháng đó, thay mặt Chính phủ lâm thời, đồng chí Võ Nguyên Giáo, Bộ trưởng Bộ Nội vụ tiếp tục Sắc lệnh số 35, ngày 20/9/1945 về việc tôn trọng và không được xâm phạm chùa, lăng tẩm của tôn giáo. Cùng năm này, Chính phủ ký tiếp 2 Sắc lệnh số 65, ngày 23- 11- 1945 về việc bảo tồn cổ di tích; Sắc lệnh số 22, ngày 18/12/1945 ấn định những ngày Tết, ngày kỉ niệm lịch sử và tôn giáo.

Tuy nhiên, khi nói tới vấn đề xây dựng luật pháp về tôn giáo thì người ta đặc biệt chú ý đến vị trí của loại hình tư tưởng này được đề cập hay không trong Hiến pháp. Và, trong Hiến pháp năm 1946 vấn đề này đã được đặt ở vị trí xứng đáng. Ở phần Lời nói đầu và Điều 10 Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là một trong các quyền cơ bản của công dân[2].

Như vậy, tôn giáo và vấn đề liên quan đã được Đảng và Chính phủ ta tôn trọng, quan tâm ngay từ những ngày đầu giành chính quyền. Sự quan tâm này không chỉ thông qua lời nói, khẩu hiệu mà khẳng định bằng cách văn bản quy phạm pháp luật là các Sắc lệnh và đặc biệt là trong Hiến pháp.

Sự quan tâm tới tôn giáo không ngừng được thực hiện qua các thời kỳ lịch sử. Tháng 12 năm 1946, sau hơn một năm công bố độc lập, Tổ quốc ta lại phải đương đầu với giặc ngoại xâm. Trước bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” này, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định một thực tế rằng: “chúng ta muốn hòa bình chúng ta phải nhân nhượng”, “nhưng càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng muốn cướp nước một lần nữa”. Và ở đây, Người nhấn mạnh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”[3]. Lời kêu gọi này bao hàm nhiều thông điệp, trong đó thông điệp đoàn kết, gắn kết, bất khả phân biệt thành phần dân tộc, tôn giáo, đảng phái để cứu dân tộc chính là mục tiêu tối thượng. Cái lõi tư tưởng quan trọng của phát biểu này là “hễ là người Việt Nam” - vừa thể hiện tính nhân văn, nhân cách cao quý nhưng cũng đồng thời khẳng định khả năng thiên tài của Người trong công tác dân vận, tập hợp quần chúng và lãnh đạo đất nước. Tinh thần này được tiếp thu trong các văn kiện sau này.

Ngày 3/3/1951, Đảng Lao động Việt Nam tuyên bố: "... vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người". Từ năm 1949 đến năm 1954, Chính phủ ta liên tiếp ban hành các Sắc lệnh, Nghị định liên quan đến quyền tự do tôn giáo gắn với lợi ích dân tộc,  trong đó có thể chia ra hai loại Sắc lệnh: một là ban hành cho dân chúng và hai là ban hành cảnh cáo đối với những kẻ có tư tưởng phản quốc.

Loại thứ nhất gồm có các loại như Sắc lệnh năm 1949 về thuế đất và hoa màu cho các tôn giáo; trong Sắc lệnh số 197/SL, ngày 19/12/1953 ban bố Luật cải cách ruộng đất; Nghị định số 315/TTg, ngày 04/10/1953 về chính sách đối với tôn giáo. Đặc biệt là Sắc lệnh 234/SL, ngày 14/ 06/1955 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành. Đây là một trong những Sắc lệnh tiến bộ nhất về vấn đề tôn giáo mà tinh thần này được đưa vào trong Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2013. Điều 1 Sắc lệnh 234 khẳng định: "Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng, quyền theo hoặc không theo bất cứ tôn giáo nào"; Điều 15 thừa nhận, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân và luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện nó[4].

Loại thứ hai gồm các Cương lĩnh, Sắc lệnh như: Cương lĩnh Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, ngày 19/02/1951 khẳng định: Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo mà phản quốc; Sắc lệnh số 133/SL, ngày 20/01/1953 về việc trừng trị các loại việt gian, phản động và xét xử những âm mưu hành động phản quốc; Sắc lệnh 133/SL, ngày 20/01/1953 quy định: “Kẻ nào vì mục đích phản quốc gây hiềm khích để phá hoại sự đoàn kết kháng chiến của các dân tộc trong nước, [...] chia rẽ nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước bạn Miên, Lào, phá hoại tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Liên Xô, Trung Quốc [...] Nếu tội trạng nặng, sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân, hoặc sẽ bị tử hình”[5].

Như vậy, tôn giáo, tín ngưỡng đã trở thành đối tượng được quan tâm, nghiên cứu trên nhiều khía cạnh khác nhau, đáng chú ý là được trình bày, quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, trong các luật liên quan ở Việt Nam ngay thời kỳ này.

2.1.2. Giai đoạn từ 1954 - 1975

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, nước ta bị chia tách làm hai với hai vùng tập kết quân sự tạm thời, đợi tổng tuyển cử. Trong quá trình này, miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục giải quyết vấn đề thực dân liên quan. Vấn đề đáng chú ý nhất trong thời kỳ này là đạo Công giáo và làn sóng tôn giáo này di chuyển từ miền Bắc vào miền Nam theo tinh thần “Chúa đã vào Nam” của một số phần tử phản động. Trước thực tế đó, ngày 7/9/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về những vấn đề cấp bách trong tình hình mới, khẳng định “chính sách tôn giáo đúng hay không là ở chỗ có đoàn kết tập hợp được giáo dân hay không. Do đó, Đảng chủ trương tín ngưỡng tự do, không can thiệp vào các hoạt động tôn giáo, không xâm phạm cơ sở vật chất như đền, chùa, nơi thờ tự,...”. Sau đó chưa đầy 20 ngày, Đảng ta ra liên tiếp hai Chỉ thị: ngày 21/9/1954, Ban Bí thư ra Chỉ thị 94-CT/TW về thi hành chính sách tôn giáo ở vùng mới giải phóng; ngày 23/8/1956, Ban Bí thư ra Chỉ thị 45/CT- TW về việc đẩy mạnh công tác vận động quần chúng đề phòng tình trạng cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam hoặc gây ra những vụ việc bất lợi.

Cần phải nhấn mạnh lại rằng, khi nhắc đến văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo trong giai đoạn này người ta đặc biệt chú ý tới Sắc lệnh 234/SL mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 14/6/1955. Ở đó, nội dung của nó được coi là tiến bộ nhất, phần lớn các luận điểm trong đó còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay. Với chín nội dung cốt lõi của Sắc lệnh đã cho người ta thấy được ở đó một sự nhìn nhận vừa nhân văn, vừa dân chủ nhưng đồng thời cũng chỉ ra được những quyền lợi, nghĩa vụ chân chính mà phía chức sắc tôn giáo và chính quyền phải thức hiện. Nó kêu gọi tinh thần yêu nước, sự trách nhiệm của toàn xã hội của mọi công dân và vì công dân, khẳng định việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân”. Tinh thần này đã được tiếp thu tương đối đầy đủ trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Chúng tôi sẽ phân tích kỹ nội dung này ở phần nhận xét về đặc điểm về quá trình xây dựng luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam.

Các văn bản tiếp theo của giai đoạn này tiếp tục kế thừa những luận điểm, tinh hoa của tinh thần trên trong các lĩnh vực cụ thể mà luật pháp quy định như: Sắc luật số 101/SL/L.003, ngày 20/10/1957 về thể lệ bảo tồn cổ di tích; Thông tư số 12/TTg, ngày 12/01/1957 về một số điểm trong chính sách cụ thể khi tiến hành sửa chữa sai lầm về cải cách ruộng đất; Thông tư số 593/TT, ngày 10/3/1957 hướng dẫn về chủ trương đối với các trường, lớp tôn giáo; Thông tư số 51/TT-DC, ngày 31/5/1958 hướng dẫn thi hành các luật và Nghị định về lập hội và hội họp đối với tôn giáo; Sắc luật số 003-SL, ngày 18/6/1957 về quyền tự do xuất bản, qui định về việc xuất bản những kinh bổn, sách báo có tính cách tôn giáo.

Nó không chỉ được lan tỏa trong các điều luật cụ thể về cuộc cải cách ruộng đất, những luật liên quan trực tiếp đến tôn giáo mà còn thể hiện một sách sâu sắc trong các Sắc luật số 004- SL, ngày 20/7/1957 của Chủ tịch nước về bầu cử Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính các cấp; Sắc lệnh số 102/SL, ngày 20/5/1957 của Chủ tịch nước về quyền lập hội, có quy định việc thành lập các hội đoàn tôn giáo; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1960; Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960; Pháp lệnh về bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp năm 1961. Đáng chú ý là Luật Tổ chức Tòa án năm 1960. Tại điều Điều 3 luật này quy định rõ: “Toà án nhân dân xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, nòi giống, tôn giáo, tín ngưỡng, địa vị xã hội và thành phần xã hội[6]. Và cuối cùng là Chính sách 10 điểm được Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký ban hành ngày 1/4/1975 nêu những vấn đề nhạy bén đối với tôn giáo ở vùng mới giải phóng.

Như vậy, nhìn một cách đại thể có thể thấy, những vấn đề về luật pháp tôn giáo ở nước ta giai đoạn 1954 - 1975 có rất nhiều điểm tiến bộ và thể hiện được tinh thần nhân văn, dân chủ. Trong bối cảnh này, việc ban hành những quy định trên về tôn giáo thực sự là một bước tiến rất đáng chú ý. Phải chăng, chính những tinh thần này mà chủ nghĩa yêu nước trong các chức sắc và tín đồ tôn giáo được phát huy một cách mạnh mẽ, phong chào “cởi áo cà sa khoác chiến bào” được phát triển hơn bao giờ hết trong từng làng xã của Việt Nam?!.

2.1.3. Giai đoạn 1976 - 1985

Ngày 30 tháng 04 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã thắng lợi một cách vẻ vang, kết thúc cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại kéo dài hơn 100 năm. Nhiệm vụ cần kíp nhất của những năm sau đó là cả nước đứng lên khôi phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế xã hội. Và, vấn đề luật pháp tôn giáo không nằm ngoài chính sách chung của giai đoạn này và những năm sau đó.

Năm 1976, Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ IV tiếp tục tái khẳng định “tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, tôn trọng quyền theo đạo hoặc không theo đạo của mọi công dân,...”[7]. Đặc biệt, ngày 11/11/1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết 297/NQ- CP về hoạt động tôn giáo. Nghiên cứu Nghị quyết này cho thấy nhiều nội dung của nó được kế thừa từ Sắc lệnh 234/SL, đồng thời có bổ sung một số nội dung mới[8]. Như vậy, giai đoạn này, về căn bản, tinh thần của Sắc lệnh 234 tiếp tục được phát huy trong đời sống xã hội. Các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này ở những năm tiếp theo trên tinh thần đó tiếp thu, kế thưa cho phù hợp với thực tiễn của từng lĩnh vực. Đó là Hiến pháp 1980; Luật Bầu cử Quốc hội năm 1980; Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1981 của Bộ trưởng Tổng thư ký Hội đồng Bộ trưởng về việc cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Nghị quyết 40-NQ/TW, “Về công tác đối với các tôn giáo trong tình hình mới”, của Ban Bí thư, ban hành ngày 01/10/1981; Thông tri số 136-TT-TW ngày 30/9/1981 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, về chủ trương thống nhất các tổ chức Phật giáo để thành lập tổ chức chung Phật giáo cả nước; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981; Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1982; Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1984; Bộ luật Hình sự năm 1985; Nghị định số 151/TTG ngày 14/01/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập Ban Tôn giáo Chính phủ; Nghị định số 228/TTg ngày 31/12/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành “Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam, thắng cảnh”; Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.

Trong những văn bản quy phạm pháp luật trên, đáng chú ý là Hiến pháp năm 1980 và Nghị quyết 40 của Chính phủ. Trong Hiến pháp năm 1980, vấn đề tôn giáo lại được khẳng định: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước[9]. Và ở Nghị quyết 40, được giới nghiên cứu đánh giá là dấu ấn cuối cùng trước Đổi mới về tôn giáo. Ở năm này (1981), Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời trên cơ sở thống nhất các tổ chức Phật giáo và hệ phái Phật giáo ở các địa phương.

2.1.4. Giai đoạn từ 1986 đến 2004

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được coi là một cuộc cải cách lớn của đất nước trên nhiều phương diện. Ở vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Đại hội lần này là một sự chuẩn bị về mặt tư tưởng cho Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị ban hành năm 1990.

Có thể khẳng định, sau một thời gian dài vấn đề liên quan đến tôn giáo bị chi phối bởi vấn đề tư tưởng chung[10] thì sau Đổi mới, Nghị quyết số 24 NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khóa VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là một bước ngoặt riêng cho lĩnh vực này.  Nghị quyết đã khẳng định được: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Đây là một bước tiến rất tiến có tính chất của cuộc cách mạng trong cải cách tư tưởng về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng Đảng và Nhà nước ta, mà Bộ Chính trị là cơ quan ban dành Nghị quyết này.

Sau Nghị quyết trên là hai văn bản tiếp tục tái khẳng định đường hướng chuyển đổi tư tưởng về vấn đề này là Chỉ thị 37- CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003. Điều đáng nói là, lần đầu tiên, một văn kiện quan trọng nhưng nhạy cảm (Chỉ thị 37 năm 1998 ) được công bố công khai trên tờ báo Nhân dân. Và cũng là lần đâu tiên, một vấn tôn giáo được Ban Chấp hành Trung ương đưa ra bàn bạc, góp ý xây dựng (Nghị quyết 25 năm 2003) trước khi Bộ Chính trị công bố ban hành. Ngoài ra, trong thời gian này, Đảng và Nhà nước ta còn ban hành các công văn khác, như Nghị định số 26/1999/NĐ-CP Về các hoạt động tôn giáo (ngày 19 tháng 4 năm 1999). Đặc biệt ở giai đoạn này có nổi lên một văn bản quy phạm pháp luật được coi là “chìa khóa” để tạo cơ sở lý luận và thực tiễn trong xây dựng luật pháp về tôn giáo ở nước ta hiện nay và sau này, đó là Pháp lệnh về Tín ngưỡng, Tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 18 tháng 06 năm 2004. Vai trò và những đóng góp của Pháp lệnh này chúng tôi sẽ bàn cụ thể hơn ở phần sau.

2.1.5. Giai đoạn từ 2005 đến nay

Nhìn chung, sau những văn bản có tính bước ngoặt, chứa đựng nhiều thông điệp, tính mới về luật pháp tôn giáo ở Việt Nam thì ở giai đoạn này, phần lớn các văn bản liên quan đều là sự kế thừa và đưa ra hướng dẫn thực hiện một cách cụ thể các tinh thần đó. Đó là Nghị định số 22/NĐ-CP, ngày 01/3/2005, Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020[11]; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 về một số công tác đối với đạo Tin Lành; Chỉ thị số 1940/2008 CT-TTg, ngày 31/12/2008, về nhà, đất liên quan đến tôn giáo; Nghị định số 92/2012 Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo thay thế Nghị định 22/2005 có hiệu lực từ ngày 1/1/2013.

Như vậy, từ sau Đổi mới đến nay, đặc biệt là từ Nghị quyết số 24, vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng được nhìn nhận với tư cách là một phần thiết yếu trong đời sống xã hội và được Bộ Chính trị khẳng định, còn phù hợp trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với lộ trình xây dựng, đổi mới những vấn đề liên quan đến luật pháp về tôn giáo, mặc dù cho đến nay chúng ta chưa có một bộ luật chính thức nào về vấn đề này song có thể khẳng định, quyền tự do, tín ngưỡng và sự tôn trọng vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong suốt sự nghiệp cách mạng. Đây sẽ là tiền đề quan trọng để trong tương lai không xa, Nhà nước ban hành luật tôn giáo, tín ngưỡng và đưa những quy định này vào đời sống để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính, luật pháp hướng đến hoàn thiện mô hình nhà nước pháp quyền theo hướng hiện đại.

2.2. Những đóng góp đáng chú ý trong quá trình xây dựng luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay

Ở tiểu mục này, chúng tôi đề cập tới những văn bản quy phạm pháp luật được coi là có tính bước ngoặt về vấn đề luật pháp tôn giáo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luật về vấn đề này.

Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh 234 ngày 14/6/1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành. Đây là một đóng góp tương đối toàn diện trong quá trình xây dựng luật pháp tôn giáo ở Việt Nam. Chúng ta có thể suy xét tinh thần của Sắc lệnh này trong nội dung cụ thể: thứ nhất, Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào; thứ hai, các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ sở tôn giáo (như: nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý,...); Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của Nhà nước; thứ ba, các nhà tu hành và tín đồ đều được hưởng mọi quyền lợi của người công dân và làm nghĩa vụ công dân; Các nhà tu hành ngoại quốc mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho phép, thì được giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam và phải chấp hành pháp luật của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như các ngoại kiều khác; thứ tư, các tôn giáo được xuất bản, phát hành những kinh bổn, sách báo có tính chất tôn giáo, nhưng phải tuân thủ pháp luật của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về xuất bản; thứ năm, các tôn giáo được mở trường đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo; các nhà thờ, đền, chùa, miếu, thánh thất và các đồ thờ tự, các trường giáo lý của tôn giáo được tôn trọng và bảo hộ, không ai được xâm phạm đến; thứ sáu, các tổ chức của các tôn giáo có tính chất kinh tế, văn hóa, xã hội đều được hoạt động sau khi đã xin phép chính quyền và được chính quyền chuẩn y chương trình, điều lệ. Những tổ chức ấy đều coi như những tổ chức của tư nhân và được pháp luật bảo hộ; thứ bảy, các tôn giáo được mở trường tư thục. Các trường đó phải dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ. Ngoài giờ dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ, có thể dạy thêm giáo lý cho những học sinh nào muốn học; thứ tám, đối với ruộng đất của tôn giáo: trong cải cách ruộng đất, khi Chính phủ trưng thu hoặc trưng mua ruộng đất của các tôn giáo để chia cho nông dân thì sẽ để lại cho nhà thờ, nhà chùa, thánh thất một số ruộng đất đủ cho việc thờ cúng và những nhà tu hành có đủ điều kiện sinh sống để làm việc tôn giáo. Số ruộng đất ấy là bao nhiêu sẽ do nông dân địa phương (nơi có nhà chùa, nhà thờ, thánh thất) bình nghị và do chính quyền cấp tỉnh chuẩn y; thứ chín, về quan hệ giữa chính quyền với các tôn giáo: “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Riêng vấn đề Công giáo, quan hệ về tôn giáo giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với Tòa thánh La Mã là vấn đề nội bộ của tôn giáo. Chính quyền không can thiệp đến” và “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng”[12].

Như vậy, với chín quy định đưa ra, chúng ta có thể thấy nổi bật những vấn đề sau:

Một là, vấn đề tự do tôn giáo không chỉ được thể hiện ở chỗ cho phép người dân được quyền theo hay không theo tôn giáo mà họ muốn mà còn thể hiện ở cả quy định cấm những hành vi ngăn cản đến các quyền ấy.

Hai là, giữa bối cảnh đất nước có nhiều diễn biến phức tạm như vậy, nhưng chính sách của ta vẫn tạo điều kiện cho phép chức sắc và tín đồ được tự do truyền đạo, giảng đạo; chính quyền không tham gia vào  các vấn đề nội bộ của tôn giáo, trong đó có cả những quan hệ phức tạp như các quan hệ quốc tế về tôn giáo, cụ thể là trường hợp Công giáo Việt Nam với Giáo triều Rô-ma. Điều này thể hiện một tầm nhìn sâu rộng, tính nhân văn sâu sắc. Tinh thàn này là một trong những biểu hiện tích cực của một nhà nước pháp quyền. Thật vậy, Nguyễn Đăng Dung cho rằng: “Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và vận hành xã hội trên cơ sở các quyền. Các quyền này được phân định và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của người dân được bảo vệ”[13].

Ba là, các tôn giáo được tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Điều này là một bước tiến rất đáng chú ý, nó còn nguyên giá tri cho đến ngay nay.

Bốn là, vấn đề hoạt động kinh tế, văn hóa của tôn giáo được pháp luật bảo hộ; việc xây dựng các cơ sở thờ tự và việc tạo cơ sở ruộng đất để lao động sản xuất được Nhà nước tạo điều kiện theo luật định.

Tiếp đến là Nghị quyết 24 (1990) của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo. Ở đây có thể khẳng định Nghị quyết là một bước chuyển biến lớn về tư tưởng. Nếu như trước, vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng dù có được đề cập, song chủ yếu mang dấu ấn cá nhân, phần lờn đều tiếp cận dưới cái nhìn “diễn biến hòa bình”, quan tâm đến tôn giáo cũng bao hàm trong đó vấn đề “phòng chống”; thì, việc đưa ra Nghị quyết 24 là một dấu ấn đáng chú ý, góp phần quan trọng vào quá trình cải cách nhận thức, trong đó có luật pháp về vấn đề này, tạo cơ sở “hành lang pháp lý” ban đầu để chúng ta thực hiện các luật khác liên quan đến quyền tự do tôn giáo của người dân, đưa tôn giáo, tín ngưỡng thực sự trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của nhân dân. Đây cũng là quan điểm đúng đắn về “tính lịch sử cụ thể” theo chủ nghĩa Mác- Lênin.

Nội dung cụ thể của Nghị quyết này có những luận điểm rất đáng chú ý, đó là: 1) Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới; 2) Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; 3) Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài.

Như vậy, nếu như trước đây, vấn đề tôn giáo thường được bàn luận trên tinh thần của cái nhìn “duy vật” thì đến Nghị quyết 24, vấn đề này đã được nhìn trên quan điểm “lịch sử cụ thể” và khẳng định đó là một nhu cầu tinh thần của con người, trong đó, vấn đề cốt lõi là đạo đức tôn giáo được nhìn nhận là nhiều điểm phù hợp trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Sau nữa là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2004. Nếu như trong các Hiến pháp trước đó, vấn đề tự do tôn giáo và những vấn đề liên quan chỉ được đề cập một cách sơ lược và chung chung thì đến văn bản “gần” luật này đã quy định một cách cụ thể và rất chi tiết về những vấn đề quyền tự do, quyền được bảo hộ và các quyền khác về tín ngưỡn, tôn giáo. Với 6 Chương, 41 Điều, Pháp lệnh Tín ngưỡng đã đưa ra một cách nhìn toàn cảnh về những quy định đối với tín ngưỡng, tôn giáo và các hoạt động liên quan. Nội dung căn bản của Pháp lệnh này, ngoài Chương quy định chung và Điều khoản thi hành, Pháp lệnh quy định cụ thể, chi tiết các vấn đề như: Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ và người tu hành, chức sắc (Chương 2); Tổ chức Tôn giáo và hoạt động của các tổ chức này (Chương 3); Vấn đề tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động xã hội của tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc; và Chương 5 đề cập trực tiếp đến vấn đề quan hệ quốc tế của tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc.

Điều đáng chú ý ở đây là, Pháp lệnh không chỉ thể hiện tinh thần dân tộc, mà còn khẳng định tinh thần cởi mở để hội nhập quốc tế. Hai vấn đề này được thể hiện nay ở tiêu đề Pháp lệnh. Ở đây, do vấn đề tín ngưỡng gắn chặt với vấn đề dân tộc và bản sắc dân tộc nên vị trí của nó đã được nhấn mạnh ngay ở vị trí đầu tiên so với hầu hết các văn bản trước đây. Thứ hai là, nhận thức được tầm quan trọng của tôn giáo trong bối cảnh mới, vấn đề hội nhập quốc tế được quy định một cách chi tiết ở Chương 5. Đây là cơ hội để các tín đồ, chức sắc tôn giáo có điều kiện được nghiên cứu, học tập và giao lưu quốc tế, nâng cao trình độ, nhận thức về tôn giáo mình trước tình hình mới của đất nước.

Để đưa Pháp lệnh đi vào đời sống, ngày 01/3/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/NĐ-CP, ngày 01/3/2005, Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là hai văn bản điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tôn giáo và được coi là những văn bản thông thoáng, cởi mở, toàn diện nhất từ trước tới thời điểm đó.

3. Những vấn đề đặt ra

Tôn giáo (và cả tín ngưỡng) luôn có vai trò và vị trí nhất định trong đời sống văn hóa, xã hội của con người từ rất xa xưa cho đến ngày hôm nay. Các tôn giáo (kể cả Hồi giáo) đều hướng con người tới những giá trị chân - thiện - mỹ. Chính vì vậy, thông qua hai “hạt nhân” là niềm tin và tính thiêng, các tôn giáo đã góp phần quan trọng xây dựng đạo đức xã hội tốt đẹp hơn, văn minh và nhân nghĩa hơn.

Tuy vậy, tôn giáo cũng là điểm đến của những âm mưu chính trị, thù địch và gây chia rẽ dân tộc. Những phần tử cực đoan hay các lý thuyết của chủ nghĩa thực dân đã và sẽ lợi dụng thế mạnh của hạt nhân tôn giáo để “gieo” vào đầu họ những mầm mống của sự mất trật tự xã hội, thậm chí là của sự hủy diệt - như một tộc người, một tôn giáo mà lịch sử đã trải qua.

Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia hiện đại đều quan tâm tới vấn đề tôn giáo trên cả phương diện chuẩn mực đạo đức và nguy cơ mà tôn giáo có thể đem lại. Đó chính là nguyên nhân mà các chính sách, luật pháp dành cho tôn giáo được chú trọng. Việt Nam là một quốc gia không nằm ngoài ảnh hưởng chung đó. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, tôn giáo đã luôn được Đảng và Chính phủ ta quan tâm. Các Sắc lệnh, Chỉ thị được ban hành không chỉ nêu cao tinh thần đoàn kết, tôn vinh đạo đức tôn giáo mà còn chỉ ra sự cần thiết phải chú ý tới các phần tử xấu lợi dụng tôn giáo vào quá trình diễn biến hòa bình, phá hoại thành quả cách mạng của đất nước ta. Thực tế đã cho thấy, từ sau năm 1954 - 1975, Công giáo và Tin lành là những tôn giáo, thực chất, đã bị chính trị lợi dụng, đi ngược lại với lợi ích dân tộc. Trong khi cả nước đứng lên vì nền độc lập dân tộc, hầu hết các Phật tử đều “cởi áo cà sa khoác chiến bào” thì một số giáo dân Công giáo[14] đã bị lợi dụng, phản cách mạng.

Luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam, vì thế, đã luôn thể hiện vai trò cần thiết trước yêu cầu của cách mạng giải phóng dân tộc và quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa nhiều thập kỷ qua. Pháp lệnh Tôn giáo, tín ngưỡng, những Sắc lệnh, Chỉ thị,…có liên quan đến tôn giáo đã định hướng cho đồng bào, giáo dân, Phật tử đi theo chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn của Nhà nước. Thời gian qua, nhiều chùa chiền, nhà thờ của tôn giáo được xây tu bổ và xây dựng mới; nhiều chức sắc tôn giáo được quan tâm, tạo điều kiện hành đạo đã chứng tỏ chính sách tôn giáo của Nhà nước ta là nhất quán trong việc tạo điều kiện để các tôn giáo được phát triển cũng như tôn vinh những giá trị cao đẹp của tôn giáo, đưa tinh thần ấy vào xây dựng đời sống xã hội.

Để bắt nhịp với nhu cầu mới của đất nước trong bối cảnh chung của quốc tế hiện nay, người làm công tác luật pháp nói chung, cán bộ thực hiện nhiệm vụ xét xử nói riêng cần phải hiểu bản chất và những vấn đề cốt lõi của tôn giáo và những mặt trái của đời sống tôn giáo có thể đem lại đối với công tác trật tự xã hội. Nhiều năm qua, ngành Tòa án nước ta đã phải đụng chạm đến những vụ án liên quan đến truyền đạo trái phép; các cuộc diễn biến hòa bình ở Tây Bắc, Tây Nguyên, điển hình là giải quyết vấn đề Tin Lành Đề-ga, Tin Lành Vàng Chứ, Thìn Hồ, v.v…đã cho thấy sự cần thiết của kiến thức về tôn giáo và luật pháp và về tôn giáo là cần thiết đối với hoạt động xét xử. Liên tiếp các vấn đề phức tạp liên quan đến sự phát triển của tôn giáo gắn với đời sống chính trị, an ninh quốc gia, gần đây những vụ việc liên quan đến tài sản đất đai, cơ sở thờ tự của các tôn giáo (như số 42 Nhà Chung, Thái Hà, Quảng Ngãi, …); những vấn đề hôn nhân gia đình, thừa kế tài sản liên quan đến tôn giáo,…không ngừng được đề cập - cũng là những vấn đề không nhỏ cần phải có hiểu biết nhất định để giải quyết trong quá trình xét xử các vụ việc liên quan.

Đáng chú ý là, trên tinh thần chung của Bộ Chính trị tại Thông báo số 116-TB/TW về việc kết luận cho phép đào tạo bậc đại học chuyên ngành, xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành Tòa án nhân dân (và ngành Kiểm sát nhân dân), ngày 30 tháng 07 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1191/2015/QĐ-TTg về việc thành lập Học viện Tòa án trên cơ sở Trường Cán bộ Tòa án, là cơ sở giáo dục đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân trực thuộc Tòa án nhân dân tối cao. Đây là một bước ngoặt quan trọng không chỉ đối với Học viện Tòa án mà còn đối với cả hệ thống ngành Tòa án nước nhà trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành. Và, trong quá trình đào tạo các chức danh Tòa án từ hệ bồi dưỡng đến hệ đào tạo đại học và sau đại học, vấn đề tôn giáo và luật pháp tôn giáo rất cần được đưa vào giảng dạy trong chương trình này để từng bước đào tạo ra lớp cán bộ ngành Tòa án không chỉ có khả năng xử lý tốt các tình huống với trường hợp là người theo tôn giáo và các vấn đề nhạy cảm thuộc tôn giáo trong quá trình xét xử mà còn có khả năng xây dựng và hoàn thiện một bộ luật về vấn đề tôn giáo để chúng ta có căn cứ ứng xử, giải quyết tốt các vấn đề liên quan. Luật pháp tôn giáo và những vấn đề liên quan được trình bày trong bài viết này nhằm vào giải quyết vấn đề như vậy./.

Hà Nội, tháng 10 năm 2015

N.L

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu gốc

    1.1. Văn bản quy phạm pháp luật

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1998), Chỉ thị số 37/CT- TW ngày 02/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003), Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Trung ương Đảng về công tác tôn giáo.

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thông tri số 136-TT-TW ngày 30/9/1981, Về chủ trương thống nhất các tổ chức Phật giáo để thành lập tổ chức chung Phật giáo cả nước.

4. Bộ Nội vụ (2013), Quyết định số 1119/ QĐ-BNV về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 10 tháng 10 năm 2013.  

5. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1955), Sắc lệnh số 234/SL , ngày 14 tháng 06 năm 1955.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội

7. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960), Luật Tổ chức Tòa án, ngày 14 tháng 07 năm 1960

     1.2. Sách trắng và tác phẩm kinh điển (tài liệu dịch)

8. Ban Tôn giáo chính phủ (2006), Sách trắng về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Hà Nội.

9. C. Mác và Ăngghen (1994), Chống Đuy-rinh, Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. C. Mác và Ăngghen (1995), Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Tài liệu nghiên cứu

13. Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phòng chống sự tùy tiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8, tháng 4, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Vân Hà (2014), Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Thư viện Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Đỗ Quang Hưng (2008), Lựa chọn mô hình nhà nước thế tục, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 12, Hà Nội.

16. Đỗ Quang Hưng (2005) Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội.

18. Trần Thế Pháp (Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc Sơn dịch - 2010), “Truyện Đầm một đêm (Nhất Dạ Trạch - Tiên Dung và Chử Đồng Tử)” Lĩnh Nam Chích quái, Nxb. Trẻ và Nxb. Hồng Bàng.

19. Nguyễn Đăng Thục (1995), Lịch sử Tư tưởng Việt Nam, Tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, Nxb. Đồng Nai.

20. Trần Minh Thư (2004),  Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

21. Đặng Nghiêm Vạn(2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Viện Ngôn ngữ học (1996) Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.


[1] Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1984, Tr. 7

Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, Tr.1106

[2] Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hiến pháp năm 1946, ngày 09 tháng 11 năm 1946.

[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.1106

[4] Sắc lệnh 234/SL, của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 14/ 06/1955.

[5] Dẫn theo Đỗ Quang Hưng (2005) Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 385

[6] Quốc Hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960), Luật Tổ chức Tòa án, ngày 14 tháng 07 năm 1960.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, Tr. 161

[8] Nguyễn Thị Vân Hà (2014), Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Thư viện Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr. 84-85.

[9] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 18/12/1980

[10] Trước đó chủ yếu mang dấu ấn cá nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

[11] Ở đây có bàn đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân tộc, tôn giáo.

[12] Sắc lệnh số 234/SL, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 14 tháng 06 năm 1955

[13] Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phòng chống sự tùy tiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8 (45) tháng 4/2009, Tr. 31

[14] Cần phải nói thêm rằng, không ít người Công giáo đã bỏ sức người, sức của tham gia vào cuộc cách mạng và xây dựng, bảo vệ đất nước ngay từ những ngày đầu giành chính quyền đến nay.


In Trang | Đóng cửa sổ