URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=121076688&p_details=1
 
Bước đầu bàn về đổi mới phương pháp giảng đại học hiện nay
22/09/2015-03:38:00 PM
 
 Ths
Ths. Nguyễn Thị Minh - Học viện Tòa án

Tóm tắt

Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế tri thức, vai trò của các trường Đại học đang góp phần cho sự tăng trường kinh tế càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thực hiện nghị quyết Trung ương khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu của nghị quyết đối với giáo dục đại học là: “tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học”. Do vậy, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và chất lượng giảng dạy đại học chính quy nói riêng là vấn đề mang tính cấp thiết, là giải pháp quan trọng nhất để nền giáo dục ở nước ta trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI có thể tiến kịp với sự phát triển của khoa học trên thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Một trong những thách thức lớn của các trường Đại học là làm thế nào để sinh viên đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội? Thách thức này khiến các nhà giáo dục đặt ra câu hỏi, vậy phương pháp giảng dạy nào sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học nước ta hiện nay.

1. Một số phương pháp giảng dạy hiện nay
Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện đại đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy - học hoặc nhấn mạnh lên mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Chúng tôi cho rằng, cho dù các phương pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm của nó do vậy người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy - học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình.
1.1. Phương pháp truyền thống

Phương pháp giảng dạy truyền thống là mô hình giảng dạy trong đó giảng viên là trung tâm, thuyết giảng kiến thức qua các bài giảng dựa vào giáo trình có sẵn(phương pháp thuyết trình). Đây là mô hình được sử dụng thường xuyên nhất  trong nền giáo dục hiện nay. Mô hình này rất hữu hiệu khi cần làm rõ một khái niệm mới hoặc trình bày nội dung kiến thức mới cho học viên. Mục đích của phương pháp thuyết trình là giúp sinh viên tiếp nhận xử lý và ghi nhớ thông tin kiến thức thông qua khả năng nghe và nhìn. Cơ sở tâm lý của phương pháp này là khi thông tin và kiến thức đến não của con người, chúng sẽ được biến đổi và lưu vào bộ nhớ ngắn hạn  hoặc dài hạn của người học. Chúng ta đã đang và từng ngồi trên ghế nhà trường nghe thầy cô thuyết giảng , vẫn có những giờ thuyết trình hấp dẫn, nội dung cô đọng rõ ràng làm chúng ta thêm động cơ học tập. Đó cũng chính là lí do phương pháp giảng dạy thuyết trình vẫn còn tồn tại đến bây giờ.

Tuy nhiên, mô hình này không mang lại nhiều cơ hội cho học viên tham gia vào quá trình học. Sự thụ động làm hạn chế khả năng học và tập trung của người học, không khuyến khích trao đổi thông tin đa chiều. Bản thân học viên không phát triển được kỹ năng tổ chức và tổng hợp nội dung. Với phương pháp này, để học tốt người học phải lắng nghe, ghi chép, cố nhớ để lặp lại các kiến thức đã được truyền giảng vì các đề thi cuối khóa, tốt nghiệp thường yêu cầu gợi lại trí nhớ. Ở góc độ tâm lý thì người học phải vận dụng trí nhớ rất nhiều trong giai đoạn tái hiện kiến thức như vậy.
Về phía mặt giảng viên, thu hút sự chú ý, tạo hứng thú của cả lớp liên tục trong khoảng thời gian 40 - 45 phút cũng là công việc tương đối khó cho giáo viên, Thầy giáo là nguồn cung cấp thông tin, giao tiếp thường là một chiều và bằng lời nói chỉ nhằm cung cấp(và nhận) thông tin, không chứa nhiều tương tác giữa giáo viên và học sinh. Bản thân giảng viên không kiểm soát được thời gian mà người học dành ra để tìm hiểu bài và ghi nhớ sâu sắc các nội dung được trình bày. Mặc dù phương pháp thuyết trình còn tồn tại những hạn chế nêu trên nhưng đến nay chưa có một phương pháp giảng dạy nào có thể thay thế hoàn toàn phương pháp thuyết trình.

1.2. Một số xu hướng hiện đại

Ở trên thế giới và Việt Nam hiện nay có một số xu hướng đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại như sau:
- Xu hướng phát triển công nghệ dạy học hiện đại: Đây là hướng lý luận dạy học ứng dụng, nghiên cứu dạy học theo chiều phân hóa – cá thể hóa theo nhịp độ riêng của quá trình lĩnh hội. Sử dụng tối đa các phương tiện dạy học hiện đại, đặc biệt chú trọng tự học có hướng dẫn, có hệ đánh giá định lượng kiến thức và kỹ năng của học sinh.
- Xu hướng cách tân truyền thống: chuyển mình đón nhận những thành tự dạy học hiện đại, lấy phương pháp nêu vấn đề - đối thoại làm then chốt. Vận dụng linh hoạt tất cả các phương pháp nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong giảng dạy. Tùy tình hình cụ thể mà có một lộ trình thích hợp, từng bước tiến tới đổi mới dạy học toàn diện.

Bảng so sánh phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại

 

2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay    
2.1. Những thuận lợi

Phía người dạy: có chuyên môn cao và kinh nghiệm thực tiễn, nhiệt tình và tâm huyết cao với nghề.
Phía người học: người học được tiếp cận nhiều với công nghệ thông tin cũng như các nguồn tài liệu phong phú, do vậy sẽ chủ động tham khảo và tiếp thu được nhiều kiến thức hơn. Về tài liệu học tập: các văn bản, hiến pháp cùng nguồn tài liệu trên internet được truy cập liên tục. Thiết bị phục vụ giảng dạy hiện nay đã có một số máy tính, máy chiếu projecter.
 
2.2. Những khó khăn

Người dạy: Ít tiếp cận và làm quen với những phương pháp giảng dạy mới,chưa được dự những tiết giảng theo phương pháp đổi mới, chưa có điều kiện để nghiên cứu kỹ để có thể vận dụng vào các bài giảng cụ thể của mình. Nghiên cứu khoa học chưa thực sự trở thành phong trào và là nhu cầu tự thân của giảng viên. Mối quan hệ giữa giảng viên và cơ sở thực tế thiếu chặt chẽ nên khả năng tiếp nhận thông tin thực tiễn bị hạn chế và không có cơ hội giải quyết vấn đề thực tiễn.
Người học: Đa số chưa có thói quen học tập độc lập, chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức, chưa mạnh dạn trong phát biểu xây dựng bài, chưa có phương pháp học tập thích hợp với bậc đại học mà vẫn theo thói quen của bậc phổ thông, nhất là những năm đầu tiên. Thiếu chủ động trong học tập, còn có tình trạng học đối phó, lên lớp đối phó hoặc chăm chỉ nhưng thụ động.

3. Một số giải pháp nhằm đổi mới phương pháp giảng hiện nay

Mỗi giảng viên phải có khả năng làm việc cường độ cao, có tinh thần đổi mới, tiếp cận thực tế, thường xuyên cập nhật thông tin, kiến thức, kỹ năng mới. Giảng viên phải thành thạo trong các kỹ năng giảng dạy từ cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích học viên thảo luận, dẫn đắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện… Giảng viên phải là những chuyên gia trong lĩnh vực phụ trách, phải là những nhà nghiên cứu khoa học giỏi, chú trọng nhiều hơn đến khả năng tiếp cận thực tiễn.

3.1 
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm
Phương pháp giảng dạy “lấy người học làm trung tâm[1] không có nghĩa là loại trừ phương pháp thuyết giảng. Thực chất đó là sự kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa thuyết giảng và đối thoại với mục tiêu phát huy cao độ tính tích cực, năng động, độc lập, sáng tạo của người học. Với phương pháp này yêu cầu người giảng không chỉ nắm vững những vấn đề cần trình bày mà còn phải rất năng động nhạy bén và sáng tạo ngay trong giờ giảng, trên cơ sở đó người giảng có thể truyền thụ những vấn đề cần thiết cơ bản đến người học một cách tự nhiên, sinh động và hứng thú. Để có thực hiện tốt phương pháp giảng dạy này, đòi hỏi:
Ngay từ đầu môn học, giảng viên phải giới thiệu các tài liệu học tập đã chọn lọc theo từng vấn đề trong nội dung giảng dạy. Trên cơ sở đó, giảng viên phải nêu vấn đề, gợi mở các vấn đề để sinh viên tự nghiên cứu tài liệu tham khảo từ đó giúp sinh viên tiếp nhận kiến thức trong sự so sánh đối chiếu, tạo thuận lợi cho sinh viên tích lũy được vốn kiến thức đa dạng, khám phá ra những ý tưởng mới, góp phần rèn luyện khả năng xử lý, tiếp nhận tri thức vá phát huy tư duy sáng tạo.
Giảng viên phải chuẩn bị chu đáo kỹ lưỡng nội dung thảo luận và tăng cường các hình thức trao đổi thảo luận cả về lý thuyết và thực hành. Trong qúa trình thảo luận, giảng viên không làm thay, chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho sinh viên, giúp cho sinh viên tự chiếm lĩnh tri thức, tự bồi dưỡng niềm tin khoa học, từ đó giúp sinh viên nắm bắt nội dung học tập nghiên cứu một cách sâu sắc và đầy đủ.
Trong điều kiện thời gian có hạn, việc tổ chức thảo luận nhóm và học đối thoại có thể làm “cháy” giáo án. Do đó phải lựa chọn những vấn đề trọng tâm và phải xác định rõ thời lượng cho mỗi bài thảo luận.
Để cho sinh viên tự tin trong tham gia phát biểu thảo luận, đối thoại, đòi hỏi giáo viên cần phải tạo cho lớp học một không khí học tập thoải mái thân thiện và không căng thẳng, mà vẫn không mất đi tính nghiêm túc của nó.
Kết cấu chương trình phải hợp lý sao cho sinh viên phải có quỹ thời gian để đọc và nghiên cứu các tài liệu được giáo viên hướng dẫn.

3.2 
Sử dụng hiệu quả các phương tiện giảng dạy hiện đại       
Phải chuẩn bị chu đáo và sử dụng hợp lý các phương tiện trợ giảng. Tuy nhiên không nên quá lạm dụng có thể gây phản tác dụng. Vẫn còn tình trạng quá lạm dụng, ỷ lại phương tiện trợ giảng, không thoát ly được bài giảng, vì vậy khi xảy ra bất trắc, ví dụ: như mất điện-các phương tiện trợ giảng không sử dụng được thì giảng viên trở thành bị động. Lạm dụng phương tiện trợ giảng sẽ vô tình biến quá trình dạy học “đọc chép” trở thành “nhìn - chép”.

3.3 
Chuẩn hoá hệ thống đánh giá kết quả học tập
Thực tế cũng cho thấy, một bộ phận lớn sinh viên đã tốt nghiệp vẫn chưa được xã hội chấp nhận do không đủ năng lực để phục vụ được các nhiệm vụ thực tế, mà sự bất cập trong hệ thống đánh giá kết quả học tập là một vấn đề rất đáng quan tâm. Đánh giá quá trình học tập phải được thể hiện thông qua bảng điểm của sinh viên và hệ thống chuẩn mực dùng để xác định các điểm số đó. Một nền giáo dục tiến bộ cần phải có một hệ thống điểm số đánh giá được chuẩn hoá, sao cho vừa có thể chuyển tải được hết mục đích của giáo dục, vừa giúp xã hội đánh giá chính xác mức độ có ích năng lực của sinh viên, đồng thời có thể giúp người học định hướng được mục tiêu và điều chỉnh được hành vi, để tự nâng cao kết quả học tập của bản thân. Điểm số tự thân nó cao hay thấp không phải là một vấn đề, mà vấn đề ở chổ chất lượng của hệ thống xác định nó. Chất lượng càng cao mức độ chuẩn hoá càng lớn, khả năng quốc tế hoá nền giáo dục đó càng rộng. Trước yêu cầu hội nhập càng đến gần, việc nhanh chóng hoàn thiện một hệ thống đánh giá kết quả học tập chất lượng cao là một yêu cầu tất yếu.

3.4 
Những biện pháp cụ thể để sinh viên có thái độ học tập tích cực
Tăng tính tự giác học tập qua việc cho sinh viên thấy hệ quả giữa chất lượng học tập và vị trí làm việc trong tương lai. Xét cho cùng khi vào trường đại học, mục đích của mọi sinh viên là muốn có một việc làm để giúp ích cho bản thân và gia đình trước khi có suy nghĩ trở thành người hữu ích cho đất nước. Nhưng cần cho sinh viên thấy rằng quan niệm học tập chiếu lệ, miễn sao có được mảnh bằng để ra làm việc là sai lầm. Văn bằng là điều kiện cần nhưng chưa đủ, đó chỉ là phương tiện để đưa các bạn đến cổng đơn vị, cơ quan. Nếu các bạn không tự giác học tập, không say mê nghiên cứu, không tự đầu tư kiến thức khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì các bạn chỉ dậm chân tại chỗ trong quá trình công tác hoặc sẽ bị đào thải. Điều này chỉ có các nhà tuyển dụng mới là người có tiếng nói mang tính trọng lượng nhất đối với sinh viên. Do vậy, nhà trường cần thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về cơ hội nghề nghiệp, các buổi giao lưu hướng nghiệp với các nhà quản trị doanh nghiệp, ngân hàng để sinh viên biết được yêu cầu của công việc trong tương lai mà cố gắng phấn đấu. Học tập tốt sẽ có việc làm tốt, đây chính là động lực thúc đẩy sinh viên tự giác học tập, hăng say nghiên cứu để làm giàu cho kiến thức chuyên môn, năng lực nghề nghiệp.
Tăng tính tự giác học tập qua việc đánh thức lòng tự trọng, tự hào của sinh viên. Cần đặt sinh viên ở vị trí của một người đã trưởng thành, một người lớn, một công dân để đánh thức lòng tự trọng. Đã là một người lớn thì không đợi ai phải nhắc nhở, đã là một công dân thì bên cạnh quyền lợi phải có nghĩa vụ đối với xã hội. Điều này sẽ tăng tính tự giác, tự vươn lên, tự chịu trách nhiệm trong sinh hoạt, học tập của sinh viên. Muốn như vậy thì nhà trường, giảng viên, cán bộ quản lý phải thực sự tôn trọng và đối xử bình đẳng với các em. Vừa là người thầy, người cha để bảo ban uốn nắn các em, nhưng lại phải là người bạn đáng tin cậy để động viên, chia sẻ giúp các em vượt qua các khó khăn, vướng mắc.
Công tác giáo dục chính trị và sự động viên của các đoàn thể. Bên cạnh điểm học tập, sinh viên còn có điểm rèn luyện đạo đức. Đây cũng là động lực nhắc nhở các em phải luôn giữ cách sống đúng mực. Sinh viên luôn được thầy cô, các phòng ban chức năng và đoàn, hội động viên trong học tập, nhắc nhở trong sinh hoạt và uốn nắn các suy nghĩ lệch lạc nhằm hướng cho các em con đường đi đúng đắn, tạo một mội trường lành mạnh để các em có điều kiện phấn đấu rèn luyện trở thành những công dân tốt có năng lực chuyên môn vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng. Nhưng để đạt hiệu quả cao hơn, công tác giáo dục chính trị và sự động viên của các đoàn thể cần đi vào chiều sâu, có những biện pháp thật cụ thể đối với từng nhóm đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, cần thấy rằng đây cũng chỉ là những biện pháp hỗ trợ chứ điều chủ yếu vẫn là ý thức vươn lên của mỗi sinh viên.
Biên soạn những tài liệu hướng dẫn học tập chung về quá trình học tập, phương pháp, sử dụng phương tiện, gặp gỡ giáo viên, tham khảo tài liệu và tài liệu hướng dẫn cho từng loại môn học.
Kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy, đặc biệt là những kiểu dạy học nêu vấn đề, thảo luận nhóm, thông báo, đàm thoại,  giảm tối đa tỉ lệ diễn giảng một chiều tùy vào từng bộ môn.
Nâng cao tỉ lệ giờ thực hành. Xây dựng hệ thống bài tập thực hành với nội dung thiết thực và phong phú qua các dạng bài tập sáng tạo, bài tập tình huống, kích thích sinh viên suy nghĩ, tưởng tượng để tìm ra phương án giải quyết tối ưu.

Trên con đường phát triển của đất nước, sự đổi mới của nền giáo dục – đào tạo để đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa chắc chắn không thể thiếu sự đổi mới và sáng tạo các phương pháp và phương tiện trong quá trình dạy học của mỗi thầy, cô giáo chúng ta. Vì đó chính là trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, là sự thể hiện mỗi giáo viên luôn “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Đổi mới phương pháp dạy học là một hoạt động mang tính liên tục và sẽ không bao giờ có điểm cuối.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Văn Đức(2012) Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong nghiên cứu và dạy học địa lý,  Hà Nội.
2. Dạy học lấy người học làm trung tâm – Trần Bá Hoành Tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, số 96/2003
3. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

4. Trần Thị Mai Nhận: “Mấy suy nghĩ từ lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy đại học tiên tiến”(http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home). Cập nhật ngày 15/9/2015.


In Trang | Đóng cửa sổ