Ths
Ths. Nguyễn Thị Minh - Học viện Tòa án |
Tóm tắt
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển
tiếp sang nền kinh tế tri thức, vai trò của các trường Đại học đang góp phần cho
sự tăng trường kinh tế càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thực hiện nghị
quyết Trung ương khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu của nghị
quyết đối với giáo dục đại học là: “tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức,
sáng tạo của người học”. Do vậy, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói
chung và chất lượng giảng dạy đại học chính quy nói riêng là vấn đề mang tính
cấp thiết, là giải pháp quan trọng nhất để nền giáo dục ở nước ta trong giai
đoạn đầu thế kỷ XXI có thể tiến kịp với sự phát triển của khoa học trên thế
giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Một trong những thách
thức lớn của các trường Đại học là làm thế nào để sinh viên đáp ứng được nhu cầu
phát triển của xã hội? Thách thức này khiến các nhà giáo dục đặt ra câu hỏi, vậy
phương pháp giảng dạy nào sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học nước
ta hiện nay.
1. Một số phương pháp giảng dạy hiện
nay
Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện đại đều
nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy - học hoặc nhấn mạnh lên mặt
nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Chúng tôi cho rằng, cho dù các phương
pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người
học và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp
giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm của nó do
vậy người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp với mục tiêu,
bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn
lực, công cụ dạy - học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình.
1.1. Phương pháp truyền thống
Phương pháp giảng dạy truyền thống là mô hình giảng dạy trong đó giảng viên là
trung tâm, thuyết giảng kiến thức qua các bài giảng dựa vào giáo trình có
sẵn(phương pháp thuyết trình). Đây là mô hình được sử dụng thường xuyên nhất
trong nền giáo dục hiện nay. Mô hình này rất hữu hiệu khi cần làm rõ một
khái niệm mới hoặc trình bày nội dung kiến thức mới cho học viên. Mục đích của
phương pháp thuyết trình là giúp sinh viên tiếp nhận xử lý và ghi nhớ thông tin
kiến thức thông qua khả năng nghe và nhìn. Cơ sở tâm lý của phương pháp này là
khi thông tin và kiến thức đến não của con người, chúng sẽ được biến đổi và lưu
vào bộ nhớ ngắn hạn hoặc dài hạn của
người học. Chúng ta đã đang và từng ngồi trên ghế nhà trường nghe thầy cô thuyết
giảng , vẫn có những giờ thuyết trình hấp dẫn, nội dung cô đọng rõ ràng làm
chúng ta thêm động cơ học tập. Đó cũng chính là lí do phương pháp giảng dạy
thuyết trình vẫn còn tồn tại đến bây giờ.
Tuy nhiên, mô hình này không mang lại nhiều cơ hội cho học viên tham gia vào quá
trình học. Sự thụ động làm hạn chế khả năng học và tập trung của người học,
không khuyến khích trao đổi thông tin đa chiều. Bản thân học viên không phát
triển được kỹ năng tổ chức và tổng hợp nội dung. Với phương pháp này, để học tốt
người học phải lắng nghe, ghi chép, cố nhớ để lặp lại các kiến thức đã được
truyền giảng vì các đề thi cuối khóa, tốt nghiệp thường yêu cầu gợi lại trí nhớ.
Ở góc độ tâm lý thì người học phải vận dụng trí nhớ rất nhiều trong giai đoạn
tái hiện kiến thức như vậy.
Về phía mặt giảng viên, thu hút sự chú ý, tạo hứng thú của cả lớp liên tục trong
khoảng thời gian 40 - 45 phút cũng là công việc tương đối khó cho giáo viên,
Thầy giáo là nguồn cung cấp thông tin, giao tiếp thường là một chiều và bằng lời
nói chỉ nhằm cung cấp(và nhận) thông tin, không chứa nhiều tương tác giữa giáo
viên và học sinh. Bản thân giảng viên không kiểm soát được thời gian mà người
học dành ra để tìm hiểu bài và ghi nhớ sâu sắc các nội dung được trình bày. Mặc
dù phương pháp thuyết trình còn tồn tại những hạn chế nêu trên nhưng đến nay
chưa có một phương pháp giảng dạy nào có thể thay thế hoàn toàn phương pháp
thuyết trình.
1.2. Một số xu hướng hiện đại
Ở trên thế giới và Việt Nam hiện nay có một số xu hướng đổi mới phương pháp
giảng dạy hiện đại như sau:
- Xu hướng phát triển công nghệ dạy học
hiện đại: Đây là hướng lý luận dạy học ứng dụng, nghiên cứu dạy học theo
chiều phân hóa – cá thể hóa theo nhịp độ riêng của quá trình lĩnh hội. Sử dụng
tối đa các phương tiện dạy học hiện đại, đặc biệt chú trọng tự học có hướng dẫn,
có hệ đánh giá định lượng kiến thức và kỹ năng của học sinh.
- Xu hướng cách tân truyền thống:
chuyển mình đón nhận những thành tự dạy học hiện đại, lấy phương pháp nêu vấn đề
- đối thoại làm then chốt. Vận dụng linh hoạt tất cả các phương pháp nhằm đạt
hiệu quả tối ưu trong giảng dạy. Tùy tình hình cụ thể mà có một lộ trình thích
hợp, từng bước tiến tới đổi mới dạy học toàn diện.
Bảng so sánh phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện
đại
2. Những thuận lợi và khó khăn trong
việc đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay
2.1. Những thuận lợi
Phía người dạy: có chuyên môn cao và kinh nghiệm thực tiễn, nhiệt tình và tâm
huyết cao với nghề.
Phía người học: người học được tiếp cận nhiều với công nghệ thông tin cũng như
các nguồn tài liệu phong phú, do vậy sẽ chủ động tham khảo và tiếp thu được
nhiều kiến thức hơn. Về tài liệu học tập: các văn bản, hiến pháp cùng nguồn tài
liệu trên internet được truy cập liên tục. Thiết bị phục vụ giảng dạy hiện nay
đã có một số máy tính, máy chiếu projecter.
2.2. Những khó khăn
Người dạy: Ít tiếp cận và làm quen với những phương pháp giảng dạy mới,chưa được
dự những tiết giảng theo phương pháp đổi mới, chưa có điều kiện để nghiên cứu kỹ
để có thể vận dụng vào các bài giảng cụ thể của mình. Nghiên cứu khoa học chưa
thực sự trở thành phong trào và là nhu cầu tự thân của giảng viên. Mối quan hệ
giữa giảng viên và cơ sở thực tế thiếu chặt chẽ nên khả năng tiếp nhận thông tin
thực tiễn bị hạn chế và không có cơ hội giải quyết vấn đề thực tiễn.
Người học: Đa số chưa có thói quen học tập độc lập, chủ động trong việc chiếm
lĩnh kiến thức, chưa mạnh dạn trong phát biểu xây dựng bài, chưa có phương pháp
học tập thích hợp với bậc đại học mà vẫn theo thói quen của bậc phổ thông, nhất
là những năm đầu tiên. Thiếu chủ động trong học tập, còn có tình trạng học đối
phó, lên lớp đối phó hoặc chăm chỉ nhưng thụ động.
3. Một số giải pháp nhằm đổi mới
phương pháp giảng hiện nay
Mỗi giảng viên phải có khả năng làm việc cường độ cao, có tinh thần đổi mới,
tiếp cận thực tế, thường xuyên cập nhật thông tin, kiến thức, kỹ năng mới. Giảng
viên phải thành thạo trong các kỹ năng giảng dạy từ cách tổ chức lớp học, bố trí
thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích học viên thảo luận, dẫn đắt
mạch thảo luận, nhận xét, phản biện… Giảng viên phải là những chuyên gia trong
lĩnh vực phụ trách, phải là những nhà nghiên cứu khoa học giỏi, chú trọng nhiều
hơn đến khả năng tiếp cận thực tiễn.
3.1
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo
hướng lấy người học làm trung tâm
Phương pháp giảng dạy “lấy người học làm
trung tâm”
không có nghĩa là loại trừ phương pháp thuyết giảng. Thực chất đó là sự kết hợp
hài hoà nhuần nhuyễn giữa thuyết giảng và đối thoại với mục tiêu phát huy cao độ
tính tích cực, năng động, độc lập, sáng tạo của người học. Với phương pháp này
yêu cầu người giảng không chỉ nắm vững những vấn đề cần trình bày mà còn phải
rất năng động nhạy bén và sáng tạo ngay trong giờ giảng, trên cơ sở đó người
giảng có thể truyền thụ những vấn đề cần thiết cơ bản đến người học một cách tự
nhiên, sinh động và hứng thú. Để có thực hiện tốt phương pháp giảng dạy này, đòi
hỏi:
Ngay từ đầu môn học, giảng viên phải giới thiệu các tài liệu học tập đã chọn lọc
theo từng vấn đề trong nội dung giảng dạy. Trên cơ sở đó, giảng viên phải nêu
vấn đề, gợi mở các vấn đề để sinh viên tự nghiên cứu tài liệu tham khảo từ đó
giúp sinh viên tiếp nhận kiến thức trong sự so sánh đối chiếu, tạo thuận lợi cho
sinh viên tích lũy được vốn kiến thức đa dạng, khám phá ra những ý tưởng mới,
góp phần rèn luyện khả năng xử lý, tiếp nhận tri thức vá phát huy tư duy sáng
tạo.
Giảng viên phải chuẩn bị chu đáo kỹ lưỡng nội dung thảo luận và tăng cường các
hình thức trao đổi thảo luận cả về lý thuyết và thực hành. Trong qúa trình thảo
luận, giảng viên không làm thay, chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho sinh
viên, giúp cho sinh viên tự chiếm lĩnh tri thức, tự bồi dưỡng niềm tin khoa học,
từ đó giúp sinh viên nắm bắt nội dung học tập nghiên cứu một cách sâu sắc và đầy
đủ.
Trong điều kiện thời gian có hạn, việc tổ chức thảo luận nhóm và học đối thoại
có thể làm “cháy” giáo án. Do đó phải lựa chọn những vấn đề trọng tâm và phải
xác định rõ thời lượng cho mỗi bài thảo luận.
Để cho sinh viên tự tin trong tham gia phát biểu thảo luận, đối thoại, đòi hỏi
giáo viên cần phải tạo cho lớp học một không khí học tập thoải mái thân thiện và
không căng thẳng, mà vẫn không mất đi tính nghiêm túc của nó.
Kết cấu chương trình phải hợp lý sao cho sinh viên phải có quỹ thời gian để đọc
và nghiên cứu các tài liệu được giáo viên hướng dẫn.
3.2
Sử dụng hiệu quả các phương tiện giảng dạy hiện đại
Phải
chuẩn bị chu đáo và sử dụng hợp lý các phương tiện trợ giảng. Tuy nhiên không
nên quá lạm dụng có thể gây phản tác dụng. Vẫn còn tình trạng quá lạm dụng, ỷ
lại phương tiện trợ giảng, không thoát ly được bài giảng, vì vậy khi xảy ra bất
trắc, ví dụ: như mất điện-các phương tiện trợ giảng không sử dụng được thì giảng
viên trở thành bị động. Lạm dụng phương tiện trợ giảng sẽ vô tình biến quá trình
dạy học “đọc chép” trở thành “nhìn - chép”.
3.3
Chuẩn hoá hệ thống đánh giá kết quả
học tập
Thực tế cũng cho thấy, một bộ phận lớn sinh viên đã tốt nghiệp vẫn chưa được xã
hội chấp nhận do không đủ năng lực để phục vụ được các nhiệm vụ thực tế, mà sự
bất cập trong hệ thống đánh giá kết quả học tập là một vấn đề rất đáng quan tâm.
Đánh giá quá trình học tập phải được thể hiện thông qua bảng điểm của sinh viên
và hệ thống chuẩn mực dùng để xác định các điểm số đó. Một nền giáo dục tiến bộ
cần phải có một hệ thống điểm số đánh giá được chuẩn hoá, sao cho vừa có thể
chuyển tải được hết mục đích của giáo dục, vừa giúp xã hội đánh giá chính xác
mức độ có ích năng lực của sinh viên, đồng thời có thể giúp người học định hướng
được mục tiêu và điều chỉnh được hành vi, để tự nâng cao kết quả học tập của bản
thân. Điểm số tự thân nó cao hay thấp không phải là một vấn đề, mà vấn đề ở chổ
chất lượng của hệ thống xác định nó. Chất lượng càng cao mức độ chuẩn hoá càng
lớn, khả năng quốc tế hoá nền giáo dục đó càng rộng. Trước yêu cầu hội nhập càng
đến gần, việc nhanh chóng hoàn thiện một hệ thống đánh giá kết quả học tập chất
lượng cao là một yêu cầu tất yếu.
3.4
Những biện pháp cụ thể để sinh viên có thái độ học tập tích cực
Tăng tính tự giác học tập qua việc cho sinh viên thấy hệ quả giữa chất lượng học
tập và vị trí làm việc trong tương lai. Xét cho cùng khi vào trường đại học, mục
đích của mọi sinh viên là muốn có một việc làm để giúp ích cho bản thân và gia
đình trước khi có suy nghĩ trở thành người hữu ích cho đất nước. Nhưng cần cho
sinh viên thấy rằng quan niệm học tập chiếu lệ, miễn sao có được mảnh bằng để ra
làm việc là sai lầm. Văn bằng là điều kiện cần nhưng chưa đủ, đó chỉ là phương
tiện để đưa các bạn đến cổng đơn vị, cơ quan. Nếu các bạn không tự giác học tập,
không say mê nghiên cứu, không tự đầu tư kiến thức khi còn ngồi trên ghế nhà
trường thì các bạn chỉ dậm chân tại chỗ trong quá trình công tác hoặc sẽ bị đào
thải. Điều này chỉ có các nhà tuyển dụng mới là người có tiếng nói mang tính
trọng lượng nhất đối với sinh viên. Do vậy, nhà trường cần thường xuyên tổ chức
các buổi tọa đàm về cơ hội nghề nghiệp, các buổi giao lưu hướng nghiệp với các
nhà quản trị doanh nghiệp, ngân hàng để sinh viên biết được yêu cầu của công
việc trong tương lai mà cố gắng phấn đấu. Học tập tốt sẽ có việc làm tốt, đây
chính là động lực thúc đẩy sinh viên tự giác học tập, hăng say nghiên cứu để làm
giàu cho kiến thức chuyên môn, năng lực nghề nghiệp.
Tăng tính tự giác học tập qua việc đánh thức lòng tự trọng, tự hào của sinh viên.
Cần đặt sinh viên ở vị trí của một người đã trưởng thành, một người lớn, một
công dân để đánh thức lòng tự trọng. Đã là một người lớn thì không đợi ai phải
nhắc nhở, đã là một công dân thì bên cạnh quyền lợi phải có nghĩa vụ đối với xã
hội. Điều này sẽ tăng tính tự giác, tự vươn lên, tự chịu trách nhiệm trong sinh
hoạt, học tập của sinh viên. Muốn như vậy thì nhà trường, giảng viên, cán bộ
quản lý phải thực sự tôn trọng và đối xử bình đẳng với các em. Vừa là người
thầy, người cha để bảo ban uốn nắn các em, nhưng lại phải là người bạn đáng tin
cậy để động viên, chia sẻ giúp các em vượt qua các khó khăn, vướng mắc.
Công tác giáo dục chính trị và sự động viên của các đoàn thể. Bên cạnh điểm học
tập, sinh viên còn có điểm rèn luyện đạo đức. Đây cũng là động lực nhắc nhở các
em phải luôn giữ cách sống đúng mực. Sinh viên luôn được thầy cô, các phòng ban
chức năng và đoàn, hội động viên trong học tập, nhắc nhở trong sinh hoạt và uốn
nắn các suy nghĩ lệch lạc nhằm hướng cho các em con đường đi đúng đắn, tạo một
mội trường lành mạnh để các em có điều kiện phấn đấu rèn luyện trở thành những
công dân tốt có năng lực chuyên môn vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp trong
sáng. Nhưng để đạt hiệu quả cao hơn, công tác giáo dục chính trị và sự động viên
của các đoàn thể cần đi vào chiều sâu, có những biện pháp thật cụ thể đối với
từng nhóm đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, cần thấy rằng đây cũng chỉ là những
biện pháp hỗ trợ chứ điều chủ yếu vẫn là ý thức vươn lên của mỗi sinh viên.
Biên soạn những tài liệu hướng dẫn học tập chung về quá trình học tập, phương
pháp, sử dụng phương tiện, gặp gỡ giáo viên, tham khảo tài liệu và tài liệu
hướng dẫn cho từng loại môn học.
Kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy, đặc biệt là những kiểu dạy học nêu vấn đề,
thảo luận nhóm, thông báo, đàm thoại, giảm
tối đa tỉ lệ diễn giảng một chiều tùy vào từng bộ môn.
Nâng cao tỉ lệ giờ thực hành. Xây dựng hệ thống bài tập thực hành với nội dung
thiết thực và phong phú qua các dạng bài tập sáng tạo, bài tập tình huống, kích
thích sinh viên suy nghĩ, tưởng tượng để tìm ra phương án giải quyết tối ưu.
Trên con đường phát triển của đất nước, sự đổi mới của nền giáo dục – đào tạo để
đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa chắc chắn không
thể thiếu sự đổi mới và sáng tạo các phương pháp và phương tiện trong quá trình
dạy học của mỗi thầy, cô giáo chúng ta. Vì đó chính là trách nhiệm và lương tâm
nghề nghiệp, là sự thể hiện mỗi giáo viên luôn “Sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật”. Đổi mới phương pháp dạy học là một hoạt động mang tính
liên tục và sẽ không bao giờ có điểm cuối.
1. Đặng Văn Đức(2012) Ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong nghiên cứu và dạy học địa lý,
Hà Nội.
2. Dạy học lấy
người học làm trung tâm – Trần Bá Hoành Tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, số
96/2003
3. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
4. Trần Thị Mai Nhận: “Mấy
suy nghĩ từ lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy đại học tiên tiến”(http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home). Cập
nhật ngày 15/9/2015.
|