URL: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=105224875&p_details=1
 
Phân tích quyền tài phán của quốc gia ven biển tại các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia và thực tiễn quy định của Việt Nam (Phần 1)
11/06/2015-02:41:00 PM
 
 Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt
Ngô Thị Mai - Trường Cán bộ Tòa án

Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh thổ của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó.

Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.

1. Đường cơ sở: Đường cơ sở là cách nói ngắn của “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”. Đường cơ sở không phải là một vùng biển của quốc gia hay quốc tế nhưng nó có ý nghĩa rất quan trọng vì chỉ khi xác định được đường cơ sở thì mới có thể xác định các vùng biển như vùng nội thủy, vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế.

Về cách xác định: Theo quy định của Luật biển 1982 thì đường cơ sở bao gồm đường cơ sở thông thường và đường cơ sở thẳng (Điều 5 đến Điều 7). Phụ thuộc vào thực tiễn địa hình, cũng như kĩ năng và trình độ nhận thức của từng quốc gia mà mỗi quốc gia sẽ xác định đường cơ sở theo một trong hai hoặc cả 2 cách xác định mà luật quốc tế đã quy định sao cho quốc gia đó có lợi nhất. Cùng với xu hướng đó thì Luật biển Việt Nam đã quy định đường cơ sở là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố (Điều 8) – giống cách xác định đường cơ sở thẳng theo Điều 7 Luật biển 1982, Việt Nam đã lựa chọn một trong hai cách xác định mà luật biển quốc tế đã quy định vì với địa hình gồ ghề khúc khuỷu nếu xác định bằng đường cở sở thông thường (chỉ phù hợp với quốc gia có bờ biển bằng phẳng) thì khi xác định chiều dài lãnh hải sẽ hẹp hơn (tính từ bờ biển) so với cách xác định đường cơ sở thẳng.

Tọa độ các điểm nối đường cơ sở của Việt Nam

 

 

 

Đường màu đỏ nối 11 điểm từ Hòn Nhạn đến Cồn Cỏ gọi là đường cơ sở

Dù không có quy định cụ thể như trong Luật biển 1982 nhưng rõ ràng nhà làm luật đã ngầm ấn định các quy định về xác định đường cơ sở tại Luật biển Việt Nam 2012 sẽ theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, pháp luật Việt Nam đã mô hình chung sử dụng các quy định của Công ước về Luật biển 1982 làm các căn cứ xác định đường cơ sở của Luật biển Việt Nam 2012, vậy sự tương thích ở đây là các quy định về căn cứ xác định đường cơ sở trong lãnh hải, quy định của Công ước là nền tảng và cũng là quy định của Luật biển Việt Nam 2012 về cách xác định đường cơ sở.

2. Vùng nội thủy:

 

Các vùng biển của một quốc gia ven biển

Về cách xác định: Theo điều 8 của Luật Biển 1982, nội thủy là “các vùng nước nằm ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải”.

Điều 9 Luật Biển Việt Nam quy định: “Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam”. Đây là cách diễn đạt khác dựa trên cơ sở Công ước Luật Biển 1982, tính chất của việc xác định vị trí của vùng nội thủy đều giống nhau, phía trong tiếp giáp với bờ biển (thuộc đất liền), phía ngoài tiếp giáp với đường cơ sở của lãnh hải.

Về quy chế pháp lí: Nội thủy là một bộ phận lãnh thổ của quốc gia ven biển, có quy chế pháp lý như vùng nước ao hồ, sông ngòi trong lục địa và thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia . Tất cả mọi luật lệ ban hành của quốc gia ven biển đều có  hiệu lực cho vùng nội thủy cũng như trên đất liền. Chủ quyền này bao trùm lên toàn bộ vùng trời, vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển và vùng bên dưới lòng nước.

Theo quy định tại Điều 10 Luật biển Việt Nam nội thủy là một bộ phận lãnh thổ của quốc gia nên Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối đối với với nội thủy. Tuy chỉ quy định chung chung như vậy về quy chế pháp lí của vùng nội thủy nhưng Điều 22 về quy định chung các hoạt động trong vùng biển của Luật biển Việt Nam lại công nhận các quy định của pháp luật quốc tế có liên quan, điều đó có nghĩa là các quy định mà Luật biển 1982 mà ghi nhận các hoạt động trong vùng nội thủy thì Việt Nam đều công nhận. Cụ thể đó là mọi sự ra vào nội thủy của tàu thuyền cũng như phương tiện bay nước ngoài trên vùng trời nội thủy đều phải xin phép và khi vào trong nội thủy tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ các quy định của Việt Nam, nếu tàu thuyền nước ngoài vi phạm thì Việt Nam có quyền thực hiện các quyền tài phán dân sự. Với tàu thuyền Nhà nước được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao, Việt Nam có quyền yêu cầu tàu thuyền vi phạm ra khỏi nội thủy và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của tàu mang cờ xử lý và bồi thường những thiệt hại do tàu thuyền gây ra nếu có. Như vậy qua đây ta có thể thấy được rằng mặc dù trong Luật biển Việt Nam không có những qui định cụ thể như trong Luật biển 1982 tuy nhiên việc thừa nhận áp dụng các quy định của Luật biển 1982 ở Việt Nam cũng làm rõ được sự tương đồng giữa 2 luật này.

Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong nội thủy

a, Đối với tàu quân sự (bao gồm cả tàu Nhà nước sử dụng vào mục đích phi thương mại)

Các tàu thuyền quân sự thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quốc gia đó giao phó. Thành viên (thủy thủ đoàn) của tàu quân sự cũng chính là những công dân mang quốc tịch của quốc gia mà tàu mang cờ. Chính vì vậy, khi hoạt động ở bất cứ vùng biển nào kể cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia khác hay vùng biển quốc tế, tàu quân sự nước ngoài sẽ được hưởng quyền miễn trừ tuyệt đối, và bất khả xâm phạm.

Trong trường hợp tàu quân sự nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển thì quốc gia ven biển có quyền:

- Yêu cầu tàu đó ra khỏi vùng nội thủy trong một thời gian nhất định (có thể thông báo cho tàu đó biết quyết định của quốc gia chủ nhà bằng miệng hoặc bằng văn bản);

- Yêu cầu quốc gia mà tàu đó mang quốc tịch phải áp dụng chế tài nghiêm khắc đối với thủy thủ đoàn vi phạm;

- Yêu cầu quốc gia có tàu phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của tàu đó gây ra trong nội thủy của quốc gia ven biển.

b, Đối với tàu dân sự

* Quyền tài phán dân sự

Về nguyên tắc, đối với tàu dân sự, luật điều chỉnh là luật của quốc gia mà tàu mang cờ. Chính vì vậy, các Tòa án của quốc gia ven biển không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự xảy ra giữa các thành viên của thủy thủ đoàn với các công dân nước ngoài không thuộc thủy thủ đoàn trên tàu mà vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của quốc gia tàu mang quốc tịch.

* Quyền tài phán hình sự

Tàu dân sự nước ngoài khi hoạt động trong nội thủy của quốc gia ven biển sẽ không được hưởng quyền miễn trừ như tàu quân sự. Bởi lẽ, tàu dân sự là những chiếc tàu do tư nhân, pháp nhân làm chủ hoặc là tàu nhà nước sử dụng vào mục đích thương mại như vận tải, buôn bán nhằm mục đích kiếm lãi. Chính vì vậy, theo luật quốc tế, quốc gia ven biển sẽ có thẩm quyền xét xử đối với các vụ vi phạm pháp luật hình sự xảy ra trong tàu dân sự nước ngoài đang hoạt động trong vùng nội thủy quốc gia ven biển. Theo đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia ven biển có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các cá nhân có hành vi phạm tội trên tàu. Tuy nhiên, thông thường các quốc gia ven biển không quan tâm đến các vi phạm pháp luật chung nếu an ninh, trật tự trong cảng không bị tổn hại.


In Trang | Đóng cửa sổ