URL: http%3A%2F%2Fhvta.toaan.gov.vn%2Fportal%2Fpage%2Fportal%2Fhvta%2F27676686%2F27677461?pers_id=28346379&item_id=290881549&p_details=1
 
Một số vấn đề về đảm bảo chất lượng đối với học học phần Luật tố tụng hành chính và kỹ năng xét xử các vụ án hành chính tại Học viện Tòa án
21/11/2021-09:21:00 PM
 
 TS

TS. hoàng văn toàn

 

1. Một số khái niệm

Chất lượng là một thuật ngữ được sử dụng hết sức phổ biến và rộng rãi. Khái niệm về chất lượng ra đời từ thời cổ đại, gắn liền với nền sản xuất và lịch sử phát triển của loài người. Tuy nhiên đến tận bây giờ chất lượng vẫn là một khái niệm gây nhiều tranh luận nhất. Người sản xuất , khách hàng, người quản trị … tùy theo góc độ quan sát khác nhau có những cách hiểu hoặc cách quan niệm khác nhau về chất lượng.

Trên góc độ người tiêu dùng, theo quan điểm của tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu – European Organisation For Quality Control : “Chất lượng của sản phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thỏa mãn những yêu cầu đòi hỏi của người sử dụng”. Theo quan điểm này, chất lượng của sản phẩm là mức độ mà sản phẩm đó thỏa mãn nhiều hay ít những yêu cầu đòi hỏi do chính người tiêu dùng đặt ra.

Theo tiêu chuẩn hóa (ISO - International Organization for Standarddization) được đông đảo các quốc gia chấp nhận: Theo tiêu chuẩn ISO 8402 : 1994 “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đó có khả năng thỏa mãn nhu cầu đã công bố hay còn tiềm ẩn”. Còn theo tiêu chuẩn ISO 9000 : 2000, “chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tínhvốn có của 1 sản phẩm, hệ thống hoặc quá trình thõa mãn các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”.

Theo từ điển tiếng anh Oxford English Dictionary, khái niệm chất lượng bao gồm tất cả các đặc trưng của sự vật, ngoài trừ những đặc trưng về số lượng.

Viện chất lượng Anh (BSI – 1991) trên quan điểm chức năng định nghĩa chất lượng là tổng hoà những đặc trưng cơ bản của sản phẩm hay dịch vụ tạo ra cho nó có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn. Oakland (1998) sau khi phân tích chi tiết đưa ra định nghĩa chất lượng là “mức độ trùng khớp với mục tiêu và chức năng”. [1]

Những đặc tính của sản phẩm thường được xác định bằng các chỉ tiêu, những thông số kinh tế - kỹ thuật- thẩm mỹ…có thể cân , đo, tính tóa, đánh giá được, hoặc yêu cầu hay mong đợi đã được công bố hoặc ngầm hiểu.Ví dụ như yêu cầu đối với sản phẩm, yêu cầu đối với hệ thống chất lượng, yêu cầu của khách hàng.

Chất lượng của sản phẩm là thước đo của giá trị sử dụng bởi vì cùng một giá trị sử dụng sản phẩm có thể có mức độ hữu ích khác nhau, do đó có mức chất lượng khác nhau.

Chất lượng có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau như: (i) Là sự xuất sắc; (ii) là sự đặc biệt; (iii) là sự hoàn hảo; (iv) đáng giá trị đồng tiền; (v) là sự tuân thủ các quy định.

Chất lượng theo nghĩa tương đối có thể hiểu là sự tổng hoà những đặc trưng của sản phầm hay dịch vụ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong những điều kiện nhất định. Một cách tổng quát, chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu, và theo một số tác giả, sự phù hợp đó phải được thể hiện ở ba phương diện: hoàn thiện, giá cả, thời điểm.[2]

* Chất lượng dạy và học luật học phần LTTHC và KN XXVAHC

Khi xem xét quá trình dạy học ở một thời điểm nhất định nó bao gồm những thành tố như: mục đích dạy học, nội dung dạy học, phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học, người dạy, người học…[3] đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nhằm hướng tới việc đạt mục tiêu của quá trình dạy và học. Sản phẩm của quá trình dạy và học rất đặc thù đó chính là nguồn nhân lực được đào tạo, sau khi hoàn thành một chương trình đào tạo nhất định sẽ có những kiến thức, kỹ năng, thái độ…đáp ứng mục tiêu của việc dạy và học đã đề ra.

Như vậy, chất lượng quá trình dạy và học học phần Luật Tố tụng hành chính và Xét xử vụ án hình chính là khả năng mà người học sau khi học xong chương trình đào tạo có thể vận dụng được trong thực tiễn xã hội, đặc biệt là năng lực áp dụng pháp luật tố tụng hành chính trong giải quyết một vụ án hành chính tại Toà án khi hoàn thành chương trình dạy và học.

Do đó, quá trình dạy học để đảm bảo mục tiêu đề ra (đảm bảo chất lượng) thì các thành tố của quá trình dạy học phải đảm bảo chất lượng, là điều kiện cần cho quá trình dạy học có chất lượng và đầu ra có chất lượng. Một trong các thành tố của quá trình dạy học không đảm bảo chất lượng, đầu ra của cả quá trình rất khó hoặc không thể đạt chuẩn đầu ra. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các thành tố cũng phải đảm bảo hướng tới mục tiêu của quá trình dạy học. Như vậy, tất cả các thành tố, các hoạt động có chất lượng thì sản phẩm đầu ra mới có chất lượng. Chất lượng dạy học được thể hiện ở chất lượng của tất cả các hoạt động dạy học, là chất lượng xây dựng mục tiêu, chất lượng nội dung chương trình, giáo trình, chất lượng quản lý, kiểm tra đánh giá chất lượng, người dạy, người học…Chất lượng quá trình và chất lượng đầu ra được đặt trong bối cảnh cụ thể. Chất lượng dạy học thể hiện ở mức độ đạt được của người học về chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ; khả năng thích ứng trong môi trường mới và khả năng tìm được vị trí việc làm trong tương lai. Vì vậy, chất lượng giáo dục là sự phù hợp năng lực của người học với chuẩn đầu ra của một quá trình hay một chương trình.

* Đảm bảo chất lượng dạy và học LTTHC và KN XXVAHC

Trên quan điểm về đảm bảo chất lượng trong quản lý kinh tế, đảm bảo chất lượng trong dạy và học nói chung, dạy và học phần LTTHC và KN XXVAHC nói riêng có thể hiểu là hình thức quản lý chất lượng được thực hiện trước và trong quá trình dạy học học phần LTTHC và KN XXVAHC. Đảm bảo chất lượng học phần LTTHC và KN XXVAHC nhằm phòng ngừa sự xuất hiện sai sót trong quá trình dạy học tránh tạo ra những “sản phẩm dạy học” có chất lượng thấp. Tiêu chuẩn Việt Nam xác định: Đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong một hệ chất lượng và được chứng minh là đủ sức cần thiết để tạo sự tin tưởng thoả đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu cầu chất lượng.

Đảm bảo chất lượng là phương tiện tạo ra sản phẩm không có sai sót do lỗi trong quá trình sản xuất hay dạy học gây ra vì thế chất lượng được giao cho mỗi chủ thể tham gia trong quá trình hay dạy học. Từ ý tưởng này mà người ta quan tâm đến việc tạo nên hệ thống quy chuẩn chất lượng khi áp dụng mô hình đảm bảo chất lượng để những người trực tiếp làm ra sản phẩm phải tự nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng, biết cách làm thế nào để đạt được chất lượng cao hơn và tự mình mong muốn làm điều đó, hơn thế nữa còn lôi kéo, vận động người khác cùng làm tốt như họ hoặc làm tốt hơn bản thân họ. Như vậy, đảm bảo chất lượng học phần LTTHC và KN XXVAHC là một hệ thống các biện pháp, các hoạt động có kế hoạch được tiến hành trong và ngoài nhà trường được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo ra sự tin tưởng thoả đáng rằng các hoạt động và sản phẩm (người học) sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu của về chất lượng dạy học theo chuẩn đầu ra (mục tiểu) ra của chương trình.

Về mặt lý luận, có thể chỉ ra một số biện pháp đảm bảo chất lượng như: (i) chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng dạy học; (ii) Quản lý chất lượng đầu vào (iii)  Quản lý quá trình dạy học; (iv) Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra, (v) Tổ chức điều tra thông tin phản hồi và theo dõi sự tiến bộ của người học theo chuẩn đầu ra; (vi) Tổ chức tự đánh giá và sử dụng kết quả tự đánh giá nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy và học; (vii) Tổ chức xây dựng và tuyên truyền sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi của nhà trường.

Để nâng cao được chất lượng đào tạo thì các cơ sở đào tạo nói chung phải đảm bảo những biện pháp trên. Đây cũng là cơ sở lý luận để học viện Toà án có thể vận dụng để nâng cao chất lượng dạy và học nói chung, trong đó có dạy và học học phần Luật Tố tụng hành chính và Xét xử vụ án hành chính.

2. Một số giải pháp đảm bảo chất lượng dạy và học học phần Luật TTHC và KN XXVAHC

Thứ nhất, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, người lao động đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng dạy học.

Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, người lao động đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng dạy học nhằm nâng cao phẩm chất, năng lực nghề nghiệp cho người dạy, cán bộ, người lao động; năng lực lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo nhà trường đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng dạy và học nói chung, trong đó có dạy và học phần LTTHC và KN XXVAHC.

Để thực hiện tốt cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về đảm bảo chất lượng,quản lý dạy và học theo hướng đảm bảo chất lượng cho toàn thể lãnh đạo nhà trường, tổ chuyên, người dạy (GV) và nhân viên trong nhà trường. Làm cho hiểu đúng: đảm bảo chất lượng là sự thống nhất cao, là trách nhiệm và sự đóng góp của mọi người trong nhà trường, không phải chỉ của lãnh đạo nhà trường. Đảm bảo chất lượng dạy học là làm đúng ở mọi khâu, mọi hoạt động giáo dục; Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp cho cán bộ quản lý, người dạy, nhân viên nhà trường, bao gồm nâng cao về: kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, tư tưởng đạo đức, lối sống...; khả năng sử dụng công nghệ mới trong giáo dục và quản lý giáo dục. Mỗi cán bộ, người dạy, nhân viên về cơ bản đều thực hiện hai nhiệm vụ “truyền thụ” kiến thức và “giáo dục” (theo nghĩa hẹp). Vì vậy, khi bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, thái độ của cán bộ quản lý, người dạy và nhan viên phải bồi dưỡng về kiến thức, nghiệp vụ theo chương trình giáo dục và bồi dưỡng kỹ năng thực hiện các chương trình giáo dục. Bên cạnh việc bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý nói chung cho lãnh đạo nhà trường, còn cần được bồi dưỡng về đảm bảo chất lượng như: bản chất của đảm bảo chất lượng, các nội dung đảm bảo chất lượng dạy học, quản lý đào tạo theo hướng đảm bảo chất lượng.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đầu vào của người học. Tổ chức hình thức tuyển sinh phù hợp nhằm tuyển chọn được những học viên có đầu vào tốt. Đây là yếu tố tiên quyết, góp phần nào nên chất lượng của hoạt động dạy và học.

Thứ ba, tổ chức khai thác và sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị, học liệu phục vụ dạy học, quản lý giáo dục đáp ứng chuẩn đầu ra.

Tổ chức khai thác và sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị, học liệu phục vụ dạy học, quản lý giáo dục đáp ứng chuẩn đầu ra nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị, học liệu, công nghệ trong và ngoài nhà trường phục vụ giáo dục, quản lý quản lý đạt chuẩn đầu ra về năng lực của người học theo chương trình đào tạo nói chung trong đó có việc dạy và học học phần LTTHC và KN XXVAHC.

Nội dung: Khai thác và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị, học liệu, công nghệ sẵn có của nhà trường phục vụ dạy học, quản lý giáo dục; Tăng cường hợp tác nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị, học liệu, công nghệ... phục vụ giáo dục, quản lý giáo dục nhằm phát triển năng lực của người học; Tổ chức hợp tác, chia sẻ nguồn lực vật chất phục vụ dạy học và quản lý giáo dục với các cơ sở giáo dục khác.

Thứ tư, quản lý quá trình dạy học.

Quản lý quá trình dạy học nhằm mục tiêu: Hình thành và phát triển động cơ đúng đắn; khơi dậy ở người học nhu cầu nhận thức, chủ động chiếm lĩnh tri thức trong quá trình học tập, hình thành năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm và khả năng quản lý bản thân...

Về nội dung thực hiện: Tổ chức triển khai chương trình đào tạo, quy chế, kế hoạch dạy học của nhà trường; Tổ chức quản lý việc xây dựng kế hoạch học tập của người học; Tổ chức quản lý việc thực hiện kế hoạch học tập của người học.

Thứ năm, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra.

Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra nhằm mực tiêu: Tăng cường kỹ năng học tập, bổ sung các kỹ năng mềm cần thiết; bồi dưỡng thêm phong cách, thái độ; tôn trọng, gìn giữ, phát huy truyền thống tốt đẹp của hệ thống Toà án, bản sắc dân tộc và nâng cao đời sống tinh thần cho người học.

Vấn đề nội dung thực hiện: Tổ chức các hoạt động mang tính trách nhiệm công dân, trách nghiệm xã hội cho người học; Tổ chức các hoạt động nâng cao năng lực hiểu biết về các môn học; bồi dưỡng các kỹ năng mềm, nâng cao đời sống tinh thần cho cho người học; Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao lòng tôn trọng, gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc và các giá trị văn hóa khác.

Thứ sáu, tổ chức điều tra thông tin phản hồi và theo dõi sự tiến bộ của người học theo chuẩn đầu ra sau mỗi học kỳ

Tổ chức điều tra thông tin phản hồi và theo dõi sự tiến bộ của người học theo chuẩn đầu ra sau mỗi học kỳ nhằm đánh giá chất lượng dạy và học của nhà trường so với với yêu cầu của chuẩn đầu ra theo chương trình để nhà trường điều chỉnh việc tổ chức các hoạt động dạy học đáp ứng yêu cầu chất lượng.

Để thực hiện tốt cần tổ chức thu thập, xử lý thông tin của người học hoàn thành chương trình dạy học theo chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo và quá trình dạy học của nhà trường, những vấn đề cần điều chỉnh chuẩn đầu ra và chương trình, giáo trình; Tổ chức thu thập,xử lý thông tin về kết quả học tập của người học đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra và yêu cầu của xã hội;Tổ chức thu thập,xử lý thông tin người quản lý các đơn sử dụng lao động sau khi người học hoàn thành chương trình giáo dục.

Thứ bảy, tổ chức tự đánh giá và sử dụng kết quả tự đánh giá nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy học

Tổ chức tự đánh giá và sử dụng kết quả tự đánh giá nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy học nhằm đánh giá kết quả thực hiện chương trình dạy và học bên trong nhà trường nhằm đưa ra các quyết định điều chỉnh hướng tới chuẩn kết quả đầu ra đối với học phần Luật Tố tụng hành chính và Xét xử vụ án hành chính đối với sinh viên chính quy học viện Toà án.

Để thực hiện tốt cần tổ chức tự nhìn nhận, mô tả, làm rõ thực trạng dạy và học học nói chung cho sinh viên tại  Học viện Toà án nói chung, đối với dạy và học học phần LTTHC và KN XXVAHC nói riêng; Tổ chức phân tích, giải thích, so sánh, đối chiếu và đưa ra những nhận định, chỉ ra điểm mạnh, điểm tồn tại và những biện pháp khắc phục; Tổ chức xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch cải tiến các biện pháp quản lý đào tạo nâng cao chất lượng dạy học.

Thứ tám, tổ chức xây dựng và tuyên truyền sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi của nhà trường.

Tổ chức xây dựng và tuyên truyền sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi của nhà trường nhằm tổ chức xây dựng và tuyên truyền sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi của nhà trường nhằm tạo ra động lực, sự đồng thuận trong quá trình thực hiện giáo dục theo hướng đảm bảo chất lượng.

Để thực hiện tốt cần tổ chức xây dựng sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi tạo nên giá trị và tạo nên sự khác biệt của nhà trường trên cơ sở pháp lý; Chỉ đạo tuyên truyền sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi của nhà trường tới toàn thể cán bộ, giảng viên, viên chức, người lao động; Chỉ đạo tuyên truyền rộng rãi sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi của nhà trường tới các bên liên quan.

Bên cạnh đó lãnh đạo nhà trường nhận thức sâu sắc về: đảm bảo chất lượng, quản lý đào tạo theo hướng đảm bảo chất lượng; tầm quan trọng của thực hiện xây dựng và tuyên truyền sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lồi của nhà trường; hiểu biết về xây dựng và tuyên truyền sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi của nhà trường; hiểu biết về kỹ thuật xây dựng chiến lược của nhà trường; Đội ngũ lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo đơn vị có hiểu biết thực tế về giáo dục, xu thế phát triển giáo dục, xu thế nhu cầu của xã hội và bối cảnh hội nhập quốc tế.

Kết luận: Đảm bảo chất lượng dạy và học nói chung, dạy và học học phần LTTHC và KN XXVAHC nói riêng là một nội dung quan trọng đối với quản lý chất lượng đào tạo, là cơ sở để thực hiện mục tiêu, chương trình đào tạo của  của mỗi cơ sở đào tạo cũng như mỗi quốc gia. Để quản lý được chất lượng lượng dạy học phù hợp với mục tiêu đào tạo, cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý chất lượng bên trong của mỗi nhà trường một cách đồng bộ từ xác định chuẩn đầu ra, quản lý chuẩn đầu vào, quản lý quá trình thực hiện giáo dục và điều chỉnh môi trường giáo dục phù hợp với chuẩn của chương trình đào tạo và phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực tiễn là những nội dung quan trọng quyết định đến chất lượng dạy và học học phần LTTHC và KN XXVAHC tại Học viện Toà án trong thời gian tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2002), Nghị quyết 08 - NQ/ TW ngày 2-1-2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

2.     Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2005), Nghị quyết 49- NQ/ TW ngày 2-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3.     Bộ Giáo dục Đào tạo (2005), Đề án Đổi mới giáo dục Việt Nam.

4.     Bộ Tư pháp (2008), Phương pháp đào tạo các chức danh Tư pháp năm 2009 – Bộ Tư pháp, (Khảo sát tháng 3/2008), Đề tài khoa học cấp bộ.

5.     Bernd Meier – Nguyễn Văn Cường, Lý luận dạy học hiện đại – cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, NXB Đại học sư phạm, 2016, Hà Nội.

6.     Nguyễn Đức Chính – Trần Hữu Hoan (2020), Quản trị phát triển chương trình giáo dục nhà trướng, Nxb Giáo dục, Hà Nội

7.     Nguyễn Đức Chính (Chủ biên), Trần Xuân Bách, Trần Thị Thanh Phương, Quản lý chất lượng trong giáo dục, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, Hà Nội

8.     Đặng Xuân Hải, Giáo trình Quản lý sự thay đổi trong giáo dục, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, Hà Nội

9.     Sái Cống Hồng – Lê Thái Hưng – Lê Thị Hoàng Hà – Lê Đức Ngọc, Giáo trình Kiểm tra đánh giá trong dạy học, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2017, Hà Nội

10.  Học viện Tòa án (2017), Nâng cao năng lực đào tạo đại học và các chức danh tư pháp Học viện Tòa án, Đề tài khoa học cấp bộ.

11.  GS. TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc – PGS. TS Nguyễn Vũ Bích Hiền (Đồng chủ biên), Quản lý văn hoá nhà trường, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2019.

12.  Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên), Giáo dục học tập 1,2, NXB Đại học Sư phạm, 2016, Hà Nội

13.  Lâm Quang Thiệp (2000), “Việc dạy và học ở đại học và vai trò của nhà giáo đại học trong thời đại thông tin”, Tạp chí Giáo dục Đại học, ĐHQGHN.

14.  Lê Công Triêm (Chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh (2002), Một số vấn đề hiện nay của phương pháp dạy học đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15.  Lê Công Triêm, Nguyễn Đức Vũ (2006), Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.



[1] GS. TS. Nguyễn Đức Chính, Quản lý chất lượng trong giáo dục, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, HN, tr. 19

[2] GS. TS. Nguyễn Đức Chính, Quản lý chất lượng trong giáo dục, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, HN, Tr. 21

[3] Trần Thị Tuyết Oanh, Giáo trình Giáo dục học, tập 1, NXB Đại học Sư phạm, HN, 2016, Tr. 122


In Trang | Đóng cửa sổ