I
I. Đặt vấn đề
1.
Dự thảo Luật Giáo dục đại học (Luật GDĐH) luôn là một đề tài “nóng”
trên các phương tiện truyền thông từ vài năm nay. Đây là điều đáng
mừng bởi nó chứng tỏ Dự thảo Luật này “chạm” đúng vào những vấn đề
bức xúc, bất cập của GDĐH hiện nay ở Việt Nam.
Thực trạng GDĐH Việt Nam thời gian qua
bộc lộ nhiều vấn đề bất cập: chất lượng GDĐH còn thấp, chưa gắn với
nhu cầu xã hội; chương trình bất hợp lý; công tác tuyển sinh vừa tốn
kém vừa không hiệu quả; công tác kiểm định chất lượng mang tính hình
thức… Những bất cập đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
từ sự đầu tư còn hạn hẹp của ngân sách nhà nước cho giáo dục,
nhưng cũng có những nguyên nhân xuất phát từ chính cơ chế, chính
sách của Nhà nước.
Dự thảo Luật GDĐH có nhiều nội dung quan trọng, trong
đó vấn đề về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH, địa
vị pháp lý của đại học tư thục (ĐHTT) vì lợi nhuận và phi lợi nhuận…
là những nội dung luôn có sự tranh luận sôi nổi, thậm chí có những ý
kiến trái chiều.
2.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của các vấn đề trên, chúng cần được
nghiên cứu thấu đáo và thảo luận kỹ trước khi thể chế hoá thành
những chính sách cụ thể trong một đạo luật chuyên ngành. Việc nghiên
cứu này cần được đặt trong một triết lý về giáo dục để hình thành
nên quan điểm có tính chất định hướng cho sự phát triển GDĐH Việt
Nam nhiều năm tới. Chỉ khi được xây dựng trên nền tảng của một triết
lý GDĐH đúng đắn vừa mang hơi thở thời đại vừa phù hợp với đặc thù
của xã hội, Dự thảo Luật GDĐH mới có thể đóng vai trò định hướng,
dẫn đường cho sự thay đổi về chất của nền GDĐH Việt Nam, đáp ứng kỳ
vọng của xã hội.
3.
Xuất phát từ cách tiếp cận đó, bài viết trình bày một số ý kiến liên
quan đến địa vị pháp lý của ĐHTT ở Việt Nam hiện nay, cụ thể hơn là
vấn đề địa vị pháp lý của ĐHTT vì mục tiêu lợi nhuận và phi lợi
nhuận, từ đó kiến nghị một cách tiếp cận hợp lý đối với hai mô hình
này trong Dự thảo Luật GDĐH.
Để có cái nhìn khái quát về vấn đề này, bài viết không chỉ dừng ở
việc xem xét các nội dung liên quan đến ĐHTT trong Dự thảo Luật
GDĐH, mà phân tích địa vị pháp lý của nó trong mối quan hệ với các
văn bản pháp luật hiện hành đang được áp dụng hiện nay như Luật Giáo
dục, Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản… và những văn bản dưới luật
nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với địa vị pháp lý của ĐHTT
như Quy chế tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT (Quy chế ĐHTT),
Điều lệ Trường đại học và Thông tư quy định nội dung, trình tự, thủ
tục chuyển đổi loại hình trường đại học dân lập sang loại hình
trường ĐHTT.
II. Sự cần thiết phải xác định địa vị pháp lý của đại
học tư thục vì lợi nhuận và phi lợi nhuận
1.
ĐHTT ở bất cứ một quốc gia nào cũng là một chủ thể pháp luật độc
lập. Muốn tham gia vào các quan hệ xã hội, ĐHTT phải có một địa vị
pháp lý nhất định để xác định ranh giới của nó trong mối quan hệ với
các chủ thể pháp luật khác. “Địa vị pháp lý của một chủ thể pháp
luật là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó
xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong hoạt động của
mình”.
Như vậy, địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật
chính là “áo khoác pháp lý” cho nó, giúp khách hàng, đối tác của chủ
thể đó nhận dạng được mình sẽ/đang quan hệ với loại chủ thể nào,
quyền, nghĩa vụ của chủ thể đó ra sao để rồi họ quyết định có/tiếp
tục có quan hệ với chủ thể đó hay không. Việc thiết kế một “áo khoác
pháp lý” cho tất cả các chủ thể pháp luật - trong đó có ĐHTT - khi
họ tham gia vào quan hệ pháp luật là hết sức cần thiết. “Áo khoác
pháp lý” của trường đại học cho phép sinh viên - đối tượng
quan trọng nhất của bất cứ một trường đại học nào - biết được nơi mà
họ sắp ghi danh có quy chế pháp lý thế nào, vì lợi nhuận hay phi lợi
nhuận; quyền lợi của họ được bảo vệ ra sao để từ đó sáng suốt lựa
chọn mô hình thích hợp. Tương tự như vậy, đối với bản thân những
người chủ sở hữu của ĐHTT, họ cũng cần biết nếu theo mô hình lợi
nhuận hay phi lợi nhuận thì trường đại học của họ có những lợi
thế/bất lợi gì. Đối với các cơ quan quản lý hay đối tác của ĐHTT,
việc biết đại học này khoác “áo khoác pháp lý” nào cũng rất cần
thiết. Nếu là mô hình phi lợi nhuận thì chính sách thuế của Nhà nước
sẽ khác với mô hình lợi nhuận ở chỗ nào? Nếu là mô hình lợi nhuận
thì cơ chế kiểm soát tài chính, cơ chế kiểm toán có khác gì không so
với mô hình phi lợi nhuận? Cơ chế vay vốn của các ngân hàng có khác
hay không đối với hai mô hình này…
Việc thiết kế một cách rõ ràng địa vị pháp lý của
ĐHTT, trong đó xác định “biên giới” giữa các mô hình ĐHTT lợi nhuận
hay phi lợi nhuận là rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Điều
này có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với bản thân những người chủ
của ĐHTT mà còn đối với tất cả những đối tượng khác có liên quan
(sinh viên và phụ huynh, cơ quan quản lý nhà nước, ngân hàng, đối
tác…).
2.
Mặc dù Dự thảo 4 Luật GDĐH có rất ít quy định trực tiếp về ĐHTT,
nhưng trong nhiều cuộc hội thảo, toạ đàm, một trong những nội dung
được tranh luận nhiều là vấn đề địa vị pháp lý của ĐHTT, cụ thể hơn,
đó là ranh giới pháp lý giữa loại hình ĐHTT có mục tiêu lợi nhuận và
không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này chứng tỏ ít nhất hai điều:
Thứ nhất,
việc xác định một ranh giới rõ ràng giữa các mô hình trường đại học,
trong đó có ĐHTT lợi nhuận và phi lợi nhuận là một nội dung được dư
luận hết sức quan tâm. Thực tế cho thấy, dù Dự thảo 4 không đề cập
trực tiếp, nhưng - một cách vô thức - dư luận xã hội luôn có xu
hướng muốn “kéo” mọi người thảo luận về vấn đề này. Đây là một thực
tế không thể phủ nhận và những nhà hoạch định chính sách không thể
không tính đến điều này trong quá trình soạn thảo và thông qua Dự
thảo Luật.
Thứ hai,
những người quan tâm đến nền giáo dục Việt Nam không muốn chấp nhận
một đạo luật về GDĐH lại “né tránh” một vấn đề thiết thực và bức xúc
đối với hoạt động của 78 trường ĐHTT, mà xa hơn, đó còn là tầm nhìn
về sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam trong thế kỷ XXI. Nếu Dự
thảo Luật GDĐH không giải quyết được vấn đề này (bên cạnh một số vấn
đề quan trọng khác)
thì nó chưa phản ánh được thực tiễn và nhu cầu bức thiết của xã hội.
3.
So với Dự thảo 4, Dự thảo 5 đã bổ sung thêm một số nội dung liên
quan đến mô hình ĐHTT nhưng Báo cáo thẩm tra sơ bộ của
Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của
Quốc hội vẫn nhận định: “Cấu trúc hệ thống GDĐH Việt Nam chưa
được xác định rõ ràng, chưa có sự thống nhất về tiêu chí phân loại
và mô hình tổ chức hoạt động, dẫn đến những bất cập nảy sinh trong
thực tiễn”.
Điều đó cho thấy, ngay cả đối với những điều khoản mới được chỉnh
lý, bổ sung, cơ quan thẩm tra Dự án Luật cũng chưa “thoả mãn”, đòi
hỏi quy định cụ thể hơn nữa những nội dung này.
Báo cáo thẩm tra sơ bộ cũng cho thấy một khả năng, để
được các đại biểu Quốc hội thông qua, Dự thảo Luật GDĐH không
thể “né tránh” việc thiết kế một địa vị pháp lý rõ ràng cho các mô
hình ĐHTT.
III. Địa vị pháp lý của đại học tư thục theo quy định
hiện hành của pháp luật
1.
Trong mối quan hệ với các trường đại học công lập, trước pháp luật,
ĐHTT có địa vị pháp lý hoàn toàn bình đẳng. Điều 2 khoản 2 Quy chế
ĐHTT xác định rõ: “Trường ĐHTT có địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm
vụ, nghĩa vụ và quyền lợi như các trường đại học công lập trong hệ
thống giáo dục quốc dân”. Dù trên thực tế việc ĐHTT có thực sự được
bình đẳng với các trường đại học công lập hay chưa là vấn đề còn
phải bàn cãi,
nhưng trước pháp luật, Nhà nước đã thể hiện quan điểm nhất quán
không phân biệt đối xử giữa ĐHTT và đại học công lập. Quan điểm này
được dư luận hết sức ủng hộ và vì vậy, đây không phải là một nội
dung gây nhiều tranh cãi khi thảo luận về Dự thảo Luật.
2.
Tuy nhiên, vấn đề dư luận quan tâm, muốn Nhà nước thể hiện rõ thái
độ của mình là việc phân định ranh giới giữa ĐHTT vì lợi nhuận và
phi lợi nhuận. Chính sách của Nhà nước đối với hai mô hình này sẽ
quyết định sự tồn tại, phát triển hoặc diệt vong của nó.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam không phân biệt ranh giới giữa ĐHTT vì
lợi nhuận hay phi lợi nhuận. Tất cả các ĐHTT đều đang được pháp luật
“khoác” chung một cho chiếc “áo khoác của doanh nghiệp”. Để làm rõ
địa vị pháp lý của ĐHTT, cần so sánh sự tương đồng giữa mô hình công
ty thương mại cổ phần trong Luật Doanh nghiệp 2005 (Luật DN) với mô
hình trường ĐHTT theo Quyết định 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế ĐHTT.
Quy chế công ty cổ phần
theo Luật DN 2005 |
Quy chế trường ĐHTT
theo Quyết định 61 |
Góp vốn
là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu
hoặc các chủ sở hữu chung của công ty (Điều 4.3 Luật DN
2005). |
Góp vốn
là việc đưa tài sản vào nhà trường để trở thành chủ sở
hữu của nhà trường (Điều 3.1 Quy chế ĐHTT ) |
Vốn điều lệ
là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết
góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào điều lệ
công ty (Điều 4.6 Luật DN 2005). |
Vốn điều lệ
là tổng giá trị số vốn góp bằng đồng Việt Nam của tất cả
các thành viên góp vốn, được ghi vào Quy chế tổ chức và
hoạt động của trường (Điều 3.3 Quy chế ĐHTT). |
Phần vốn góp
là tỷ lệ vốn mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của
công ty góp vào vốn điều lệ (Điều 4.5 Luật DN 2005). |
Phần vốn góp
là tỷ lệ tính bằng phần trăm của phần vốn mà từng chủ sở
hữu đóng góp so với vốn điều lệ (Điều 3.4 Quy chế ĐHTT). |
Vốn có quyền biểu quyết
là phần vốn góp hoặc cổ phần, theo đó người sở hữu có
quyền biểu quyết về những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết
định của Hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông
(Điều 4.8 Luật DN 2005). |
Phần vốn có quyền biểu quyết
là phần vốn góp, theo đó người sở hữu có quyền biểu
quyết về những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng
cổ đông quyết định (Điều 3.5 Quy chế ĐHTT). |
Cổ đông
là người sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của
công ty cổ phần (Điều 4.11 Luật DN 2005). |
Cổ đông
là người sở hữu ít nhất một cổ phần (Điều 3.8 Quy chế
ĐHTT ). |
Cơ cấu tổ chức
(Điều 95 Luật DN 2005) của công ty cổ phần có:
·
Đại hội đồng cổ đông;
·
Hội đồng quản trị;
·
Giám đốc/Tổng giám đốc.
·
Ban kiểm soát.
|
Cơ cấu tổ chức
của trường đại học tư thục (Điều 8, Điều 9 Quy chế ĐHTT
) có:
·
Đại hội đồng cổ đông;
·
Hội đồng quản trị;
·
Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng;
·
Ban kiểm soát. |
Số lượng cổ đông tối thiểu
của công ty cổ phần:
3
(Điều 77.1.b Luật DN 2005). |
Số lượng thành viên tối thiểu
của ĐHTT: 3 (Điều 7 Quy chế ĐHTT ). |
Chuyển nhượng phần vốn góp:
Công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng
phần vốn góp.
|
Các cổ đông có quyền chuyển nhượng, rút
vốn một phần hoặc toàn bộ số vốn góp theo quy định do
Đại hội đồng cổ đông thông qua. Việc quy định cụ thể
việc chuyển nhượng quyền sở hữu và rút vốn của trường
dựa trên Luật
DN (Điều 31.1 Quy chế ĐHTT ). |
Giải thể:
Giải thể công ty cổ phần theo quy định
của giải thể doanh nghiệp. |
Trong trường hợp nhà trường bị giải thể,
việc xử lý về tài chính, tài sản được áp dụng theo quy
định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp (Điều 31.3
Quy chế ĐHTT ). |
Sử dụng thu nhập:
Được quyền chi trả cổ tức sau khi đã hoàn
thành các nghĩa vụ thuế và tài chính (Điều 93.2 Luật DN
2005). |
Tổng thu nhập sau khi đã trừ các khoản
chi phí, được phân chia cho các cổ đông theo tỷ lệ góp
vốn (Điều 30.3 Quy chế ĐHTT ). |
Bảng: So sánh sự tương đồng
giữa công ty cổ phần và ĐHTT
So sánh những quy định cụ thể trong bảng trên, từ
việc góp vốn, chuyển nhượng cổ phần, cơ cấu tổ chức, đến quy chế
quản lý tài chính…, ĐHTT hiện nay đang được coi như một công ty
thương mại, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
Vậy chuyện gì sẽ xảy ra khi trường ĐHTT “khoác áo”
doanh nghiệp?
IV. Khi đại học tư thục có địa vị pháp lý của một
doanh nghiệp
1.
Trước tiên, doanh nghiệp được định nghĩa “là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản riêng và trụ sở giao dịch ổn định, được thành lập
theo thủ tục pháp luật quy định, lấy kinh doanh làm nghề nghiệp
chính”.
Trong Luật DN 2005, tiêu chí “thực hiện các hoạt động kinh doanh” là
một trong những tiêu chí quan trọng để xác định một tổ chức có là
doanh nghiệp hay không. Bên cạnh đó, Luật DN cũng định nghĩa rất rõ
hoạt động kinh doanh là những hoạt động nhằm “mục đích sinh lợi”.
Từ những quy định hiện hành của pháp luật, có thể khẳng định, hiện
nay trong pháp luật Việt Nam, trường ĐHTT có địa vị pháp lý của một
doanh nghiệp,
thậm chí đang được quản lý như một công ty thương mại cổ phần.
2.
Khi có quy chế pháp lý của một doanh nghiệp, ĐHTT bắt buộc phải vận
hành theo cơ chế của một doanh nghiệp. Tất nhiên, vì trường đại học
là một loại “doanh nghiệp” đặc biệt đào tạo một “sản phẩm đặc biệt”
là con người, nên bên cạnh việc phải tuân thủ quy định của Luật DN,
pháp luật cũng quy định một số tiêu chuẩn, điều kiện khắt khe hơn
đối với một số chức danh của ĐHTT. Ví dụ, ít nhất 2/3 số thành viên
Hội đồng quản trị phải có trình độ đại học;
sau khi trường ĐHTT bầu được Hội đồng quản trị thì phải có văn bản
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận mới hợp lệ…
Tuy nhiên, quy chế bao trùm hoạt động của ĐHTT hiện
nay vẫn là quy chế tổ chức và hoạt động của một doanh nghiệp, thậm
chí, vì được “khoác” cái áo của công ty cổ phần, ĐHTT còn thuộc loại
doanh nghiệp “lấy kinh doanh làm hoạt động chính”. “Chiếc áo khoác”
công ty cổ phần này là loại hình chung duy nhất áp dụng cho tất cả
các trường ĐHTT. Dù muốn hay không, tất cả các ĐHTT hiện nay đều bắt
buộc phải vận hành theo mô hình của một công ty vì mục tiêu lợi
nhuận mà không có sự lựa chọn nào khác.
3.
Khi vận hành trong nền kinh tế thị trường theo quy chế của một doanh
nghiệp, ĐHTT cũng bị đặt trước những rủi ro trong hoạt động kinh
doanh như bất cứ một doanh nghiệp nào. Trên nguyên tắc, ĐHTT hoàn
toàn có thể bị phá sản bất cứ lúc nào. Khi phá sản, theo nguyên tắc
chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, ĐHTT
cũng chỉ có thể chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của họ (do vay
ngân hàng hoặc nợ đối tác) trong phạm vi phần vốn góp của các chủ sở
hữu.
Hiện nay, Quy chế ĐHTT theo Quyết định 61 (Điều 31.3)
chỉ đưa ra một kịch bản duy nhất cho sự đóng cửa các trường ĐHTT
bằng phương thức giải thể theo nguyên tắc giải thể doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đối với doanh nghiệp, bên cạnh thủ tục giải thể để chấm dứt
sự hoạt động theo ý chí của chủ doanh nghiệp, còn có sự chấm dứt
hoạt động thông qua thủ tục phá sản khi doanh nghiệp không thể thanh
toán được các khoản nợ đến hạn. Chấm dứt hoạt động theo thủ tục phá
sản là trường hợp đóng cửa doanh nghiệp bất đắc dĩ, không theo ý chí
của chủ doanh nghiệp. Thủ tục phá sản doanh nghiệp là công cụ để bảo
vệ chủ nợ, cho phép chủ nợ lấy lại được phần nào tài sản mà chủ
doanh nghiệp bị phá sản đã nợ mình. Giả sử, trong trường hợp ĐHTT bị
đóng cửa do không thanh toán được các khoản nợ đến hạn, thì quy chế
nào sẽ phải áp dụng cho trường hợp này? Nếu áp dụng quy chế giải thể
doanh nghiệp trong trường hợp này, thì quyền lợi của các chủ nợ chắc
chắn không được bảo đảm. Quan trọng hơn, quyền lợi về học tập của
sinh viên sẽ được giải quyết ra sao? Học phí của sinh viên là một
trong những nguồn thu của ĐHTT, khi trường bị phá sản, việc giải
quyết quyền lợi của họ sẽ theo nguyên tắc nào? Sinh viên không phải
người lao động trong doanh nghiệp, cũng không phải chủ sở hữu, quyền
lợi về tài chính của họ sẽ được giải quyết ra sao? Tất cả những câu
hỏi này chưa được trả lời trong Dự thảo Luật GDĐH và trong các văn
bản pháp luật hiện hành của Nhà nước.
4.
Để một trường đại học vận hành theo quy chế của một doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường - vốn đầy rủi ro, bất trắc - thì sự
phát triển ổn định của một trường đại học sẽ không được bảo đảm.
Theo báo cáo của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, trong 6 tháng đầu năm
2011 có 30% doanh nghiệp phải giải thể, phá sản, tạm ngừng kinh
doanh… Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI), bình quân hàng năm có khoảng 6.000 doanh nghiệp bị phá sản,
giải thể. Tất cả những số liệu đó được coi là hiện tượng bình
thường, thậm chí có thể coi như một dấu hiệu tích cực trong sự phát
triển của các doanh nghiệp khi đứng trước sự “sàng lọc” của nền kinh
tế thị trường. Sự ổn định không phải là một tiêu chí thiết yếu để
đánh giá sự thành công của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với một
trường đại học, yếu tố ổn định lại vô cùng quan trọng, vì trường đại
học là nơi “trồng người”, nơi đào tạo nên những con người có tri
thức, mà để “trồng người” cần tới hàng trăm năm chứ không phải chỉ
vài năm. Vì vậy, dưới góc độ lợi ích xã hội, việc hoạt động theo quy
chế doanh nghiệp sẽ đặt trường ĐHTT vào sự rủi ro, bất ổn và yếu tố
ổn định cần có của một trường đại học sẽ không được bảo đảm.
5.
Hoạt động theo cơ chế của một công ty cổ phần, về nguyên tắc, các
chủ sở hữu của ĐHTT được quyền tự do chuyển nhượng cổ phiếu của
mình. Hiện nay, Điều 31.1 Quy chế ĐHTT dẫn chiếu nguyên tắc áp
dụng Luật DN đối với việc chuyển nhượng cổ phần hay rút phần vốn
góp. Với quy định này, một lần nữa ĐHTT lại bị đặt trước sự bất ổn
do quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần của các chủ sở hữu. Không
thể trách những người chủ sở hữu của ĐHTT vì tự do chuyển nhượng cổ
phần là một nguyện vọng chính đáng và pháp luật cần bảo vệ quyền lợi
của họ. Nhưng hãy hình dung một trường đại học có hàng ngàn sinh
viên, hàng trăm giảng viên, họ sẽ thực hiện hoạt động nghiên cứu
khoa học và đào tạo thế nào trước “sức ép” của nguy cơ liên tục bị
thay đổi chủ sở hữu? Dưới góc độ này, một lần nữa, ĐHTT lại bị đặt
vào thế bất ổn định.
6.
Cũng dưới “áo khoác pháp lý” của một doanh nghiệp, Đại hội đồng cổ
đông và Hội đồng quản trị là hai thiết chế quan trọng nhất, có ý
nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của trường ĐHTT. Đại
hội đồng cổ đông - những người chủ sở hữu của ĐHTT - có quyền quyết
định đối với “phương hướng xây dựng và phát triển trường, việc mở
rộng, thay đổi, điều chỉnh ngành nghề, quy mô và trình độ đào tạo,
định hướng hoạt động khoa học công nghệ”.
Hội đồng quản trị có quyền “bầu Hiệu trưởng” và “quyết định bổ nhiệm
các Phó Hiệu trưởng”, “phê duyệt phương án chung về tổ chức bộ máy,
biên chế”, “xác định những nguyên tắc cơ bản giải quyết công việc
liên quan đến công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, phát triển công
nghệ, dịch vụ”… Điều lệ trường đại học cũng cho phép Hội đồng quản
trị của ĐHTT “quyết định phương hướng hoạt động của nhà trường”.
Với những quyền hạn được xác định như trên, hoạt động giảng dạy, đào
tạo và ngay cả hoạt động nghiên cứu khoa học của ĐHTT phụ thuộc vào
ý chí của các “ông chủ” - những người có cổ phần trong trường đại
học - chứ không nằm trong sự chủ động của giảng viên. Với những quy
định của Quy chế ĐHTT, quan hệ giữa giảng viên và chủ sở hữu ĐHTT
hiện nay giống hệt quan hệ ông chủ và người lao động trong doanh
nghiệp. Nhưng khác với doanh nghiệp, trường đại học tạo ra một sản
phẩm đặc biệt cho xã hội, đó là con người có tri thức. Con người có
tri thức này là đối tượng có ảnh hưởng và để lại dấu ấn vô cùng quan
trọng đối với xã hội. Vì vậy, quá trình hình thành con người có tri
thức phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đào tạo ở trường đại học mà
chất lượng này chủ yếu phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng, sự sáng tạo
của giảng viên đại học. Muốn ĐHTT có chất lượng, phải có cơ chế để
giảng viên đại học được “tự do học thuật”, phát huy được cao nhất sự
sáng tạo, độc lập của mình trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu.
Tuy nhiên, quy chế ĐHTT hiện nay đã đặt giảng viên vào vị trí của
người lao động làm công ăn lương, phụ thuộc vào người sử dụng lao
động là người chủ sở hữu của trường đại học. Vị thế đó khiến giảng
viên đại học không thể phát huy được sự chủ động, sáng tạo của mình,
nhất là họ không thể độc lập trong hoạt động giảng dạy và nghiên
cứu. Vị thế phụ thuộc của giảng viên trong ĐHTT chắc chắn sẽ ảnh
hưởng - theo nghĩa tiêu cực - đến chất lượng GDĐH.
Có lẽ, trong Quy chế ĐHTT, khái niệm “tư nhân” “tư thục” đã bị đồng
nhất với các khái niệm “kinh doanh”, “vì lợi nhuận”, nghĩa là, nếu
thuộc khu vực tư nhân, phi nhà nước thì chỉ có thể là kinh doanh, vì
mục tiêu lợi nhuận,
chứ không thể có cái gì thuộc về tư nhân mà lại phi lợi nhuận được.
Thế nhưng, thực tế phát triển ĐHTT ở Việt Nam thời gian qua cho
thấy, không phải bất cứ đại học tư nào do tư nhân lập ra cũng theo
đuổi mục tiêu vì lợi nhuận.
V. Kinh nghiệm nước ngoài
1.
Trên thế giới rất nhiều quốc gia có hệ thống đại học tư thục, trong
đó thành công nhất là mô hình đại học tư của Hoa Kỳ. Phần lớn các
trường đại học tư ở Hoa Kỳ hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận,
chỉ một số rất ít các trường sau trung học theo hướng hoạt động nghề
nghiệp (hoạt động vì lợi nhuận). Theo số liệu thống kê năm 2005,
trong tổng số 4.391 trường đại học ở Hoa Kỳ, có 1.737 trường công,
1.746 trường tư không vì lợi nhuận và 908 trường tư vì lợi nhuận.
Đối với các trường tư phi lợi nhuận, ngoài khoản học phí do sinh
viên đóng góp, thường có một khoản khá lớn tài sản hiến tặng của các
doanh nghiệp, cá nhân, cựu học sinh giúp nhà trường hoạt động. Nhà
nước khuyến khích hình thức hiến tặng này bằng chính sách miễn thuế
cho người hiến tặng đối với phần tài sản hiến tặng đó. Cơ chế hiến
tặng giúp đại học tư ở Hoa Kỳ có nguồn tài chính để hoạt động. Người
hiến tặng không giữ vai trò là chủ sở hữu tài sản hiến tặng, nên bảo
đảm được vị thế độc lập và sự sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp
của giảng viên đại học tư.
2.
Ở Trung Quốc, trước khi Luật Giáo dục tư được ban hành vào năm 2002,
có hai mô hình giáo dục được lựa chọn: Luật Giáo dục năm 1995 quy
định các cơ sở giáo dục là một tổ chức phi lợi nhuận, nhưng nếu các
cơ sở giáo dục thành lập, hoạt động và đăng ký hoạt động tại các
Phòng Thương mại và Công nghiệp thì họ được thu lợi nhuận và phải
đóng thuế. Kể từ khi Luật Giáo dục năm 2002 được ban hành, các nhà
đầu tư cho giáo dục tư ở Trung Quốc có thể thu một khoản “lợi nhuận
hợp lý” nhưng định lượng thế nào là mức “hợp lý” lại chưa được quy
định rõ. Một điều đáng chú ý là dù cho phép trường tư được thu một
khoản “lợi nhuận hợp lý” nhưng Luật Giáo dục năm 2002 của Trung Quốc
không coi đó là một khoản lợi nhuận của các nhà đầu tư mà như một
phần thưởng của Nhà nước dành cho nhà đầu tư. Trung Quốc cũng thực
hiện chính sách miễn giảm thuế cho phần tài sản hiến tặng nhà trường
của các tổ chức, cá nhân hiến tặng. Tuy nhiên, sau năm 2002 Trung
Quốc lại thành lập một loại “trường công hạng hai” trong chính các
trường công, có lợi thế về cơ sở hạ tầng do Nhà nước đầu tư sẵn và
lực lượng giáo viên hiện có của các trường công, khiến các trường tư
không thể cạnh tranh nổi. Điều này thể hiện chính sách không rõ ràng
và sự lúng túng
của Trung Quốc trong việc định hướng phát triển giáo dục nói chung
và chính sách phát triển giáo dục tư nhân. Đây có thể là một kinh
nghiệm cho Việt Nam khi hoạch định chính sách đối với ĐHTT, tránh
bài học nêu trên của Trung Quốc.
VI. Kiến nghị về cách tiếp cận địa vị pháp lý của đại
học tư thục trong Dự thảo Luật Giáo dục đại học
1.
Nhu cầu ngày càng tăng của người học khiến ngân sách của các quốc
gia không thể bao cấp hoàn toàn việc GDĐH, mà cần huy động những
nguồn lực khác trong xã hội cùng chung sức đào tạo nên những con
người có tri thức. Vì vậy, xã hội hoá GDĐH là xu hướng toàn cầu chứ
không phải vấn đề của riêng quốc gia nào.
2.
Sự phát triển của GDĐH trên thế giới trong vài chục năm qua còn chịu
ảnh hưởng của xu hướng thương mại hoá giáo dục, theo đó, “giáo dục
ngày càng bị coi là một sản phẩm thương mại để mua và bán giống như
những thứ hàng hoá khác trên thị trường”.
Nếu như trước và trong thế kỷ XIX, GDĐH được coi như một dịch vụ
công với sứ mạng đóng góp cho xã hội một tầng lớp tinh hoa, có tri
thức cao, thì hiện nay, “GDĐH được xem là một “lợi ích tư” mang lại
những lợi ích cho bản thân người học”. Xu hướng thương mại hoá giáo
dục đã khiến cho “những giá trị của thị trường ùa vào trường đại học
để bắt nhà trường thay đổi theo ý nó”.
Xu hướng này giống một luồng gió thổi vào và làm lay chuyển (nhẹ) cả
hệ thống giáo dục của một số quốc gia có nền giáo dục phát triển. Đã
có hiện tượng một số trường đại học danh tiếng của Hoa Kỳ vốn bản
thân là những trường tư phi lợi nhuận nhưng nay lại thành lập một số
trung tâm hoặc bộ phận trực thuộc, thậm chí là các công ty hoạt động
vì mục tiêu lợi nhuận. Một vài trường của Ôxtraylia thì thành lập
những chi nhánh ở nước ngoài với mục tiêu để tìm kiếm lợi nhuận.
3.
Xu hướng là như vậy, nhưng mỗi quốc gia có những sự lựa chọn riêng
của mình. Khi xây dựng Dự thảo Luật GDĐH, những người làm chính sách
không thể không đặt nền giáo dục Việt Nam trong bối cảnh chung của
sự phát triển GDĐH trên thế giới với những xu thế như đã nói trên.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi tuyệt đối hoá sứ mệnh phi lợi nhuận của
GDĐH để không tôn trọng mục tiêu vì lợi nhuận của một số trường đại
học, từ đó chỉ trích sự thương mại hoá giáo dục. Ngược lại, cũng
không nên tung hô quá đà xu thế thương mại hoá giáo dục, coi GDĐH
giờ đây chỉ có tính chất như một lợi ích tư, để rồi quản lý nó hoàn
toàn giống như một công ty thương mại. Thương mại hoá giáo dục không
xấu, nó chính là sự phản ánh hiện thực khách quan của đời sống xã
hội. Nhưng thương mại hoá giáo dục cũng gây nên những hệ luỵ tiêu
cực mà các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển cần nhận
thức được đầy đủ trước khi hoạch định chính sách của mình.
4.
Trên cơ sở cách tiếp cận như vậy, Dự thảo Luật GDĐH không nên loại
trừ hoàn toàn mô hình ĐHTT vì mục tiêu lợi nhuận mà nên cho phép tồn
tại song song cả hai mô hình, lợi nhuận và phi lợi nhuận. Điều quan
trọng là đối với mỗi mô hình, cần thiết kế một “áo khoác pháp lý”
thích hợp để các nhà đầu tư giáo dục tự do lựa chọn mô hình phù hợp
với mình. Có thể quản lý vấn đề tài chính của những đại học vì mục
tiêu lợi nhuận như một doanh nghiệp, nhưng đối với hoạt động chuyên
môn, thì không thể quản lý nó giống một doanh nghiệp. Vì vậy, những
quy định hiện hành về ĐHTT - dù đã có một số điểm thích hợp với mô
hình đại học vì mục tiêu lợi nhuận - cũng vẫn cần được nghiên cứu để
bổ sung, sửa đổi, sao cho, dù là dưới “tấm áo” doanh nghiệp nhưng
đại học đó vẫn phải bảo đảm được những tiêu chuẩn cốt yếu của một cơ
sở giáo dục có chất lượng. Đối với những đại học không vì mục tiêu
lợi nhuận - dù hiện nay chưa có một quy chế pháp lý nào điều chỉnh -
các nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo mô hình công ty dân
sự hoạt động phi lợi nhuận tồn tại trong pháp luật nước ngoài.
5. Ngoài việc công nhận hai mô hình ĐHTT, Dự
thảo Luật GDĐH cũng cần thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với mỗi
mô hình. Thái độ đó cần được thể hiện bằng chính sách cụ thể qua
từng điều luật. Nếu Nhà nước muốn khuyến khích phát triển mô hình
ĐHTT phi lợi nhuận, Dự thảo Luật phải có những chính sách về thuế,
chế độ tài chính… cho mô hình này. Ngược lại, nếu muốn khuyến
khích sự phát triển của đại học vì mục tiêu lợi nhuận, cần có cơ chế
quản lý thích hợp để giám sát được chất lượng của mô hình đó, hạn
chế những tác động tiêu cực của yếu tố thị trường vào hoạt động của
trường đại học. Thương mại hoá giáo dục không hoàn toàn đồng nghĩa
với việc chấp nhận tất cả những hệ luỵ, những mặt tiêu cực của nền
kinh tế thị trường. Nhà nước có một công cụ rất hữu hiệu trong tay
để quản lý xã hội - đó là pháp luật. Công cụ này đủ mạnh để kích
thích được những yếu tố tích cực và hạn chế được những yếu tố tiêu
cực của nền kinh tế thị trường.
6.
Chất lượng giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng hiện đang là nỗi bức
xúc của toàn xã hội. Chất lượng đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng
nếu tất cả những yếu tố khác đều tốt, mà sự độc lập, sáng tạo trong
hoạt động giảng dạy, nghiên cứu của giảng viên đại học không được
phát huy, thì không thể cho ra đời những con người có trí tuệ, có
nhân cách. Muốn chất lượng GDĐH được bảo đảm, trước tiên phải bảo
đảm sự tự do về học thuật và sự độc lập về nghề nghiệp của giảng
viên đại học. Muốn có được sự độc lập này (đặc biệt trong mối quan
hệ giữa giảng viên đại học với chủ sở hữu của trường đại học), giảng
viên đại học không thể trông chờ vào lòng hảo tâm của những người
chủ sở hữu trường đại học để có được vị thế độc lập của mình. Hơn ai
hết, chính pháp luật phải cân đối mối quan hệ giữa hai đối tượng này
để thiết lập nên sự độc lập đó. Đây chính là một trong những nội
dung quan trọng mà Dự thảo Luật GDĐH cần điều chỉnh.
7.
Hiện nay, những quy định về địa vị pháp lý của ĐHTT đang được điều
chỉnh bởi những văn bản dưới luật có giá trị pháp lý không cao (chủ
yếu được ban hành bằng các quyết định của Thủ tướng Chính phủ). Đối
với những vấn đề đã có quan điểm rõ ràng (thể hiện trong các đạo
luật) và có sự đồng thuận cao của xã hội, việc quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành những vấn đề đó có thể thực hiện bằng các văn bản
dưới luật. Tuy nhiên, đối với những vấn đề hiện đang còn tranh luận,
quan điểm chưa rõ ràng, đặc biệt những nội dung liên quan đến quyền
công dân, vấn đề sở hữu cần được quy định trong một đạo luật do Quốc
hội ban hành. Quy trình soạn thảo và ban hành một đạo luật theo quy
định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho phép công
chúng, đặc biệt là những đối tượng chịu tác động của văn bản, được
thảo luận công khai và minh bạch về chính sách của Nhà nước trước
khi chính sách đó được ban hành.
Vấn đề địa vị pháp lý của ĐHTT, các chính sách của
Nhà nước đối với mô hình ĐHTT vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận là
những nội dung quan trọng, không chỉ động chạm đến quyền công dân,
vấn đề sở hữu mà còn tác động rất lớn đến sự phát triển của nền
GDĐH, từ đó tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của cả quốc
gia. Vì thế, những nội dung này xứng đáng và cần được điều chỉnh
trong một văn bản có giá trị pháp lý cao. Soạn thảo Luật GDĐH là cơ
hội để những người hoạch định chính sách giáo dục thảo luận, nghiên
cứu và sửa đổi, bổ sung những chính sách chưa hợp lý của Nhà nước
đối với sự phát triển của ĐHTT ở Việt Nam, góp phần nâng cao chất
lượng GDĐH Việt Nam trong thế kỷ XXI. |