Thực hiện Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, Chính phủ đang chuẩn bị
trình Quốc hội xem xét cho ý kiến về Dự án Luật Giáo dục đại học
(Luật GDĐH) tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIII và sẽ thảo luận,
thông qua Dự án Luật này tại kỳ họp thứ ba vào quý II năm 2012.
Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: cần đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam nói chung trong đó có
GDĐH theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá, dân chủ
hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục là khâu then chốt. Sau 25 năm đổi mới của đất nước và 10
năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, GDĐH nước
ta đã từng bước phát triển về quy mô, đa dạng về loại hình trường và
hình thức đào tạo; cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao
đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội, quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng
và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, GDĐH cũng còn không ít hạn chế, yếu
kém, phương pháp quản lý nhà nước đối với cơ sở GDĐH chậm được thay
đổi, chưa bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của toàn hệ
thống, chưa phát huy mạnh mẽ được sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo,
các nhà quản lý và người học.
Luật Giáo dục là
luật khung, quy định một số vấn đề chung của GDĐH, còn các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành về GDĐH hiện còn quy định phân tán,
hiệu lực pháp lý không cao. Nhiều vấn đề quan trọng của GDĐH được
quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng các Bộ, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành, cần được điều chỉnh bằng một văn
bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, pháp điển
hoá các quy định còn phân tán trong các văn
bản dưới luật thành quy định của Luật GDĐH. Trong bối cảnh GDĐH Việt
Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với hệ thống GDĐH trong khu vực và
trên thế giới, việc ban hành Luật GDĐH là cần thiết để điều chỉnh
các hoạt động GDĐH phù hợp với các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên, quản lý tốt hơn hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực GDĐH. Việc ban hành Luật GDĐH là cần thiết, nhằm tạo cơ sở
pháp lý vững chắc, thống nhất cho sự phát triển của GDĐH và thực
hiện các mục tiêu của GDĐH.
Nếu Luật Giáo dục
điều chỉnh toàn bộ các cấp học và trình độ đào tạo trong hệ thống
giáo dục quốc dân, từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp và GDĐH thì Luật GDĐH là luật chuyên ngành đầu tiên quy
định về tổ chức, hoạt động GDĐH, cụ thể hoá
các quy định khung của Luật Giáo dục về GDĐH. Luật GDDH nâng các quy
định tại các văn bản dưới luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm và mang
tính ổn định thành các nội dung của Luật. Vấn đề thành lập cơ sở
GDĐH quy định tại Nghị quyết số 50/2010/QH12 ngày 19/6/2010 của Quốc
hội khoá 12 về việc thực hiện chính sách, pháp
luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối
với GDĐH đã được thể hiện tại khoản 3 Điều 10 Chương I của Dự thảo
Luật, trong đó có ưu tiên thành lập cơ sở GDĐH tư thục có vốn đầu tư
lớn, bảo đảm đầy đủ các điều kiện thành lập theo quy định. Vấn đề
quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị
định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đã được thể hiện
tại khoản 1 Điều 9 Chương I của Dự thảo Luật. Quy hoạch mạng lưới cơ
sở GDĐH là sự phân bố, sắp xếp hệ thống các trường cao đẳng,
trường đại học, học viện, đại học, đại học quốc gia với cơ
cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp với quy mô dân số, vị trí
địa lý, vùng lãnh thổ trên toàn quốc và từng địa phương, cho từng
thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và quốc
phòng, an ninh của đất nước”. Nội dung về cơ cấu tổ chức cơ sở GDĐH
quy định tại Điều 25 Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Giáo dục đã được thể hiện tại Điều 12, Điều 13 Chương II của Dự
thảo Luật. Vấn đề nhiệm vụ và quyền hạn của trường đại học quy định
tại Điều 5 Chương II Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học đã được thể hiện
tại Điều 24 Chương III của Dự thảo Luật. Các vấn đề bản về cơ sở
GDĐH tự chủ xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển
trường; triển khai hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác
quốc tế, bảo đảm chất lượng GDĐH; tổ chức bộ máy; tuyển dụng, quản
lý, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ; quản lý người học; thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo và chịu sự giám sát, kiểm tra, thanh tra của các
cơ quan có thẩm quyền; được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất, cơ sở
vật chất; được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật; được hợp
tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hoá,
thể dục, thể thao, y tế, nghiên cứu khoa học trong nước và nước
ngoài... cũng đã được bao quát, xây dựng.
Vấn đề mở ngành đào
tạo quy định tại Điều 9 Chương III Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày
22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học đã
được thể hiện tại Điều 29 Chương IV của Dự thảo Luật. Cơ sở GDĐH
được phép mở ngành đào tạo trình độ cao đẳng, đại học; ngành, chuyên
ngành đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ khi đáp ứng đủ các điều kiện
về đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học cơ hữu; cơ sở vật chất, thiết
bị, thư viện, giáo trình; chương trình đào tạo. Vấn đề tuyển sinh
quy định tại Điều 11 Chương III Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày
22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học đã
được thể hiện tại Điều 30 Chương IV của Dự thảo: Cơ sở GDĐH tự chủ,
tự chịu trách nhiệm xác định chỉ tiêu tuyển sinh, công bố công khai
chỉ tiêu tuyển sinh, chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm
chất lượng GDĐH. Cơ sở GDĐH tự chủ quyết định phương thức tuyển sinh
và chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh.
Nhiệm vụ của giảng
viên quy định tại Điều 25 và Quyền của giảng viên quy định tại Điều
26 Chương VI Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học đã được thể hiện tại
Điều 49 Chương VIII của Dự thảo Luật. Giảng viên giảng dạy theo mục
tiêu, chương trình đào tạo; nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa
học và chuyển giao công nghệ; học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy; tham gia quản
lý và giám sát cơ sở GDĐH; tham gia công tác Đảng, đoàn thể và các
công tác khác. Giảng viên được ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu
khoa học với các cơ sở GDĐH, cơ sở nghiên cứu khoa học; được bổ
nhiệm chức danh của giảng viên, được xét tặng danh hiệu Nhà giáo
Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú; được khen thưởng theo quy định của pháp
luật...
Một số nội dung quy
định tại Luật Giáo dục được bổ sung tại Dự thảo Luật GDĐH. Điều 41
của Luật Giáo dục quy định về Chương trình khung, Dự thảo Luật GDĐH
giao Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chuẩn tối thiểu về
kiến thức, kỹ năng mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp; quy
trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo trình độ
cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; quy định các môn học bắt buộc
trong chương trình đào tạo đối với các trình độ đào tạo của cơ sở
GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài; quy định việc biên soạn, lựa chọn,
thẩm định, duyệt và sử dụng tài liệu giảng dạy, giáo trình GDĐH. Dự
thảo Luật GDĐH bổ sung quy định về cách xác định chỉ tiêu tuyển
sinh. Chỉ tiêu tuyển sinh được xác định trên cơ sở nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, phù hợp với các điều kiện về số lượng và
chất lượng đội ngũ giảng viên; cơ sở vật chất và thiết bị.
Những vấn đề chưa
được quy định hoặc quy định chưa rõ trong Luật Giáo dục đã được quy
định mới và cụ thể hơn trong Luật GDĐH. Vai trò của Nhà nước về phát
triển GDĐH, tăng ngân sách đầu tư cho GDĐH; đầu tư ngân sách có
trọng điểm để hình thành một số cơ sở GDĐH chất lượng cao thuộc
các ngành khoa học cơ bản, các ngành khoa học và công nghệ cao đạt
trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Khoản 3 Điều 10 của Dự
thảo Luật quy định về chính sách xã hội hóa và hoạt động không vì
lợi nhuận. Cơ sở GDĐH tư thục được cấp kinh phí khi thực hiện nhiệm
vụ do Nhà nước đặt hàng, gắn đào tạo với nghiên cứu và triển khai
ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở
GDĐH với cơ sở nghiên cứu khoa học và với doanh nghiệp. Luật GDDH
cũng đã thực hiện phân tầng cơ sở GDĐH để có chính sách đầu tư, giao
nhiệm vụ và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với vị trí,
vai trò, năng lực bảo đảm chất lượng đào tạo của cơ sở GDĐH, có
chính sách ưu tiên đối với đối tượng được hưởng chính sách xã hội;
đối tượng ở vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đối tượng theo học các ngành đặc
thù đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; thực
hiện bình đẳng giới trong GDĐH.
Dự thảo Luật thiết
kế một điều riêng quy định về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
của cơ sở GDĐH. Khoản 1 Điều 28 của Dự thảo Luật quy định 6 nội dung
về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH, gồm tổ chức
và nhân sự; tài chính và tài sản; hoạt động đào tạo; hoạt động
khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế và bảo đảm chất
lượng và kiểm định chất lượng GDĐH. Khoản 2 Điều 28 của Dự thảo Luật
đã quy định 4 điều kiện để được giao quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm: 1) vị trí, vai trò, nhiệm vụ; 2) năng lực thực hiện
quyền tự chủ; 3) cam kết trách nhiệm khi thực hiện quyền tự chủ và
4) kết quả kiểm định chất lượng GDĐH. Khoản 3 Điều 28 của Dự
thảo Luật quy định cơ sở GDĐH không còn đủ năng lực để thực hiện
quyền tự chủ về đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế thì
quyền tự chủ bị thu hồi; cơ sở GDĐH vi phạm khi thực hiện quyền tự
chủ thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Khoản 4 Điều 28
của Dự thảo Luật quy định Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì,
phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan quy định cụ thể
về điều kiện được tự chủ, tự chịu trách nhiệm; mức độ thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm; việc thu hồi quyền tự chủ trong
thực hiện nhiệm vụ được giao; xử lý các hành vi vi phạm.
Để ưu đãi, khuyến
khích các cơ sở GDĐH tư thục và cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài
hoạt động không vì mục đích lợi nhuận; khuyến khích đầu tư cho hoạt
động giáo dục, Dự thảo Luật GDĐH khuyến khích các cơ sở GDĐH tư thục
và cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì mục đích
lợi nhuận; Cấm lợi dụng các hoạt động GDĐH vì mục đích vụ lợi. Phần
tài chính chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên
cứu khoa học của cơ sở GDĐH tư thục phải được dành một phần hợp lý
để đầu tư cho hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm
trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ
quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của
người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã
hội. Phần này được miễn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Phần còn lại, nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động của
cơ sở GDĐH, thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Để phần tài sản tích lũy trong quá trình hoạt động, tài sản được ủng
hộ, hiến tặng, đất đai mà Nhà nước đã cho thuê hoặc giao cho cơ sở
GDĐH không biến thành tài sản tư nhân, khoản 4, khoản 5 Điều 60 Dự
thảo Luật Giáo dục đại học đã quy định giá trị tài sản tích lũy được
trong quá trình hoạt động của cơ sở GDĐH tư thục và giá trị của các
tài sản được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng cho cơ sở GDĐH tư thục được
quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển. Tài sản và đất đai
Nhà nước giao cho cơ sở GDĐH tư thục quản lý và tài sản cơ sở GDĐH
tư thục được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng phải sử dụng đúng mục đích,
không chuyển đổi mục đích sử dụng và không được chuyển thành sở hữu
tư nhân dưới bất cứ hình thức nào. Khoản 6 Điều 59 Dự thảo Luật GDĐH
quy định cơ sở GDĐH thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao
được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo. Quy định
này khuyến khích các cơ sở GDĐH cạnh tranh nâng cao chất lượng, đảm
bảo hài hòa cơ cấu nhân lực, nâng cao tính cạnh tranh của sinh viên
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Dự thảo Luật GDĐH
quy định chức danh giảng viên, gồm trợ giảng, giảng viên, giảng
viên chính, phó giáo sư và giáo sư. Khoản 5 Điều 49 Dự thảo Luật
quy định việc kéo dài thời gian làm việc của các giảng viên có chức
danh giáo sư, phó giáo sư. Giảng viên có chức danh giáo sư, phó
giáo sư công tác trong cơ sở GDĐH có thể kéo dài thời gian
làm việc kể từ khi đủ tuổi nghỉ hưu để giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, nếu giảng viên có đủ sức khỏe, tự nguyện kéo dài
thời gian công tác, đồng thời cơ sở GDĐH có nhu cầu.
Dự thảo Luật GDĐH có những nội dung quy định về cơ
cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước
ngoài gồm cơ sở GDĐH có 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; cơ sở
GDĐH liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể điều kiện và thủ tục thành
lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ
hoạt động đào tạo, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học,
học viện, đại học, đại học quốc gia và cơ sở GDĐH có vốn đầu tư
nước ngoài. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định cho phép
hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo trường cao đẳng,
trường đại học, học viện và cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ
sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng và thực hiện mục
tiêu, chương trình, nội dung giảng dạy, nghiên cứu khoa học; xây
dựng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, thiết bị, giáo trình, tài
liệu phục vụ giảng dạy, học tập; bảo đảm chất lượng và kiểm định
chất lượng GDĐH; tổ chức hoạt động đào tạo, cấp phát văn bằng, chứng
chỉ theo quy định của pháp luật; tổ chức và hoạt động theo quyết
định cho phép thành lập, cho phép hoạt động đào tạo; công khai cam
kết chất lượng đào tạo, công khai về nguồn lực và tài chính. Cơ sở
GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự quản lý nhà nước về giáo
dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo, định kỳ báo cáo về tình hình hoạt
động và giải trình với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành và Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài đặt
trụ sở và hoạt động; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người học,
giảng viên và những người lao động khác trong trường hợp chấm dứt
hoặc buộc phải chấm dứt hoạt động trước thời hạn; tôn trọng các
phong tục, tập quán của Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam bảo hộ
các quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam
và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.
Luật GDĐH sẽ là công cụ pháp lý quan trọng để đổi mới
cơ bản và toàn diện GDĐH, bảo đảm quyền tự chủ và nâng cao chất
lượng GDĐH, đổi mới và nâng cao chất lượng quản lý. |