Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính (VPHC) và
bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) là những biện pháp
được áp dụng trước khi có quyết định XLVPHC (trừ biện pháp “truy tìm
đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn” được áp dụng sau
khi đã có quyết định xử lý hành chính) nhằm hạn chế tối đa những
hành vi vi phạm pháp luật, ngăn chặn hậu quả thiệt hại do VPHC gây
ra hoặc để bảo đảm việc XLVPHC được triệt để. Các biện pháp ngăn
chặn VPHC và bảo đảm XLVPHC hiện được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC.
Thực tiễn cho thấy, các quy định này có nhiều hạn chế, bất cập cần
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, nhất là khi chúng ta đang tiến hành
xây dựng Luật XLVPHC.
1. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành
chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính
1.1. Biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Theo Khoản 2 Điều 44 của Pháp lệnh XLVPHC, “mọi
trường hợp tạm giữ đều phải có quyết định bằng văn bản...”. Điều này
trên thực tế rất khó thực hiện khi việc tạm giữ được các ngành đặc
thù như kiểm lâm, bộ đội biên phòng áp dụng.
Bên cạnh đó, Pháp lệnh XLVPHC quy định thời hạn tạm
giữ người theo thủ tục hành chính không quá 12 giờ là chưa thật hợp
lý vì khoảng thời gian như vậy thường không đủ để xác minh các yếu
tố nhân thân, lai lịch của người vi phạm cũng như kết luận hành vi
vi phạm. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, ranh giới giữa VPHC và tội
phạm hình sự có nhiều điểm rất gần nhau mà những vụ việc này lại xảy
ra ở vùng sâu, vùng xa, vùng biển, biên giới, hải đảo... nơi mà điều
kiện giao thông không thuận lợi hoặc một số vụ việc có yếu tố nước
ngoài. Trong những tình huống như vậy, nhiều trường hợp, để đảm bảo
thời gian tạm giữ, người có thẩm quyền đã phải cố tình bắt người
buổi sáng nhưng đến buổi chiều mới lập biên bản vi phạm hoặc buộc
phải thả người vi phạm ra ngay cả khi người vi phạm chưa có tiền nộp
phạt.
Để bảo đảm quyền tự do thân thể của công dân, Pháp
lệnh khống chế chặt chẽ thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành
chính. Thời hạn tạm giữ được tính từ “thời điểm bắt đầu giữ người vi
phạm”. Vì vậy, cần phải làm rõ nội dung quy định này, đó là thời
điểm cơ quan chức năng phát hiện, đình chỉ, giữ và dẫn giải người vi
phạm về trụ sở cơ quan, hay là tính từ thời điểm khi đưa người vi
phạm về đến trụ sở cơ quan và bắt đầu ra quyết định tạm giữ?
1.2. Biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính
Một số khó khăn, tồn tại hiện nay trong thực hiện
biện pháp này là:
Thủ tục tạm giữ phương tiện VPHC theo Điều 46 Pháp
lệnh chưa được đơn giản hoá nên trên thực tế,
người có thẩm quyền không kịp thời tiến hành xử lý các trường hợp
sai phạm. Ví dụ: để tạm giữ phương tiện thì người có thẩm quyền phải
ghi ba loại giấy tờ: biên bản vi phạm, biên bản tạm giữ và quyết
định tạm giữ phương tiện... Đã vậy, cơ sở vật chất, kho, bãi sử dụng
cho việc tạm giữ tang vật, phương tiện còn khó khăn, chưa đáp ứng
được yêu cầu (chủ yếu để ngoài trời, diện tích chật hẹp...), nên dễ
làm suy giảm chất lượng của tang vật, phương tiện bị tạm giữ, vi
phạm quy định của Pháp lệnh.
Trong thực tế xảy ra nhiều trường hợp đã hết thời hạn
tạm giữ tang vật, nhưng người vi phạm chưa thi hành quyết định xử
phạt, hoặc đối với một số vụ việc vi phạm trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại có tính chất phức tạp, hồ sơ trình UBND cấp có thẩm quyền
tới 03 tháng vẫn chưa trả lại, dẫn đến tình trạng vi phạm thời hạn
tạm giữ tang vật, phương tiện. Lại có những trường hợp người vi phạm
sử dụng phương tiện cũ, giá trị thấp (xe ôtô thanh lý giá rẻ để vận
chuyển trái phép hàng hoá khác), khi bị bắt
giữ, thì bỏ luôn, không đến nhận lại và trốn tránh không thi hành
quyết định xử phạt.
1.3. Biện pháp khám người theo thủ tục hành chính
Theo quy định, chỉ những người có thẩm quyền mới được
khám người. Tuy nhiên, một số người đang thực thi công vụ mới là
người thực hiện các hoạt động tuần tra, kiểm soát trực tiếp nhưng họ
lại không có thẩm quyền khám người (trong nhiều trường hợp bao gồm
cả khám phương tiện, tang vật bị nghi ngờ VPHC), và nếu trình lên
người có thẩm quyền sẽ không kịp thời xử lý vi phạm (ví dụ: công
chức hải quan có nhiệm vụ chống buôn lậu và kiểm tra, giám sát hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải
xuất cảnh, nhập cảnh).
1.4. Biện pháp khám phương tiện vận tải, đồ vật theo
thủ tục hành chính
Khó khăn, vướng mắc trong thực tế khi áp dụng biện
pháp này thường là sự vắng mặt của chủ phương tiện vận tải, đồ vật
(người chủ phương tiện thường giao cho người điều khiển phương tiện
chịu trách nhiệm vận chuyển hàng hoá, hoặc trường hợp người chủ khi
bị phát hiện vi phạm đã không nhận mình là chủ đồ vật) nên việc lập
biên bản theo quy định gặp khó khăn về người làm chứng. Một trở ngại
khác là việc giao biên bản cho chủ phương tiện vận tải, đồ vật hoặc
người điều khiển phương tiện vận tải trong nhiều trường hợp rất khó
khăn vì họ cố tình vắng mặt hoặc không nhận.
1.5. Biện pháp khám nơi cất giấu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính
Trong điều kiện thực tế hiện nay, nhiều cơ sở sản
xuất, kinh doanh đồng thời cũng là nơi ở của gia đình chủ kinh doanh
hoặc chủ kinh doanh thuê nhà của người khác để làm nơi kinh doanh.
Khi có VPHC xảy ra tại những địa điểm này thì nơi cất giấu tang vật,
phương tiện VPHC cũng chính là nơi ở. Theo quy định của pháp luật
XLVPHC hiện hành, thì việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện
VPHC là nơi ở chỉ được thực hiện sau khi có sự đồng ý bằng văn bản
của Chủ tịch UBND huyện. Quy định này không khả thi và gây khó khăn
cho việc khám xét, vì để có được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch
UBND cấp huyện thì phải mất từ 01 đến 02 ngày, thậm chí còn lâu hơn
nếu Chủ tịch UBND đi công tác xa. Trong thời gian chờ văn bản đồng ý
của Chủ tịch UBND cấp huyện, đối tượng có đủ thời gian để tẩu tán
tang vật, phương tiện vi phạm. Đặc biệt, đối với một số ngành đặc
thù, do điều kiện, địa bàn công tác ở nơi xa xôi, hẻo lánh, rừng
núi, biên giới hải đảo, điều kiện giao thông không thuận lợi (kiểm
lâm, biên phòng, hải quan...) thì quy định này càng không thuận lợi,
thậm chí còn có phần gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan đó.
1.6. Biện pháp bảo lãnh hành chính
Pháp lệnh XLVPHC và Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày
16/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh XLVPHC năm 2008 chưa có quy định riêng cụ thể về thủ
tục bảo lãnh và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nhận bảo lãnh, của
gia đình, người giám hộ nhận bảo lãnh người chưa thành niên (NCTN).
Điều này thể hiện tính chưa toàn diện, chưa có sự chú trọng thích
đáng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN thông qua
các quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với NCTN.
1.7. Biện pháp quản lý người nước ngoài vi phạm pháp
luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất
Thực tế, số trường hợp áp dụng biện pháp quản lý
người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ
tục trục xuất là không nhiều do thời gian qua, theo quy định của
PLXLVPHC, thì chỉ Bộ trưởng Công an mới có quyền quyết định áp dụng
hình thức phạt này nên thủ tục phức tạp, kéo dài, mất thời gian. Do
vậy, cơ quan, người có thẩm quyền chỉ áp dụng hình thức xử phạt này
trong trường hợp thật cần thiết. Bên cạnh đó, cơ sở pháp lý để triển
khai áp dụng biện pháp quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật
Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất cũng mới chỉ được nêu
rất ngắn gọn trong một số điều của Nghị định số 97/2006/NĐ-CP ngày
15/9/2006 của Chính phủ quy định việc áp dụng hình thức xử phạt trục
xuất theo thủ tục hành chính, nên việc thực thi biện pháp này trong
thực tiễn cũng rất hạn chế.
1.8. Biện pháp truy tìm đối tượng đã có quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong
trường hợp bỏ trốn
Biện pháp này áp dụng chung cho các đối tượng trên,
chưa có quy định riêng đối với NCTN. Biện pháp này mang tính cưỡng
chế cao, thủ tục áp dụng và thực tế thi hành có nhiều diễn biến phức
tạp phát sinh; trong khi đó, đối tượng NCTN lại có những đặc điểm
tâm sinh lý rất riêng. Nếu như không có những quy định cụ thể và
hướng dẫn chi tiết áp dụng biện pháp truy tìm đối tượng bỏ trốn đối
với NCTN thì việc áp dụng sẽ không có sự thống nhất và không có sự
đối xử khác biệt như đối với người đã thành niên; do vậy dễ dẫn đến
những hậu quả đáng tiếc.
2. Những bất cập của pháp luật hiện hành về các biện
pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành
chính
Các biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm XLVPHC chiếm
một vị trí quan trọng trong các văn bản quy phạm pháp luật nói chung
và trong thực thi pháp luật về XLVPHC nói riêng. Bởi lẽ, các biện
pháp này không chỉ liên quan trực tiếp đến các quyền con người mà
còn liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy,
nó đòi hỏi phải dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc, đầy đủ và việc
thực thi phải theo một quy trình minh bạch, nghiêm túc và chính xác.
Về cơ bản, các quy định về các biện pháp ngăn chặn
VPHC và bảo đảm XLVPHC hiện hành tương đối đầy đủ, bảo đảm chặt chẽ
về nội dung, trình tự, thủ tục, đối tượng áp dụng. Tuy nhiên, qua rà
soát, đánh giá, các quy định này bộc lộ một số hạn chế, bất cập sau:
- Chưa bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất
trong hệ thống pháp luật XLVPHC. Có biện pháp không được chính thức
quy định trong Pháp lệnh XLVPHC hiện hành mà phải được bổ sung bằng
Nghị định của Chính phủ sau khi có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, bởi nếu không quy định bổ sung thì không có cơ sở pháp lý
để đấu tranh phòng, chống VPHC hiệu quả. Ví dụ: biện pháp đưa người
nghiện ma tuý, người bán dâm không có nơi cư trú nhất định vào lưu
trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh đang được thực hiện theo quy định
tại Nghị định số 43/2005/NĐ-CP ngày 05/4/2004 của Chính phủ.
- Một số quy định pháp luật về các biện pháp ngăn
chặn VPHC và bảo đảm XLVPHC còn chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến việc
hiểu và thực hiện chưa thống nhất ở các địa phương. Ví dụ: quy định
về xác định thời điểm để bắt đầu tính thời hạn tạm giữ theo thủ tục
hành chính đối với người vi phạm. Một số biện pháp chưa được áp dụng
nhiều trong thực tiễn do tâm lý e ngại phiền phức hoặc phát sinh
khiếu kiện mặc dù có đủ điều kiện và căn cứ áp dụng. Ví dụ: biện
pháp bảo lãnh hành chính, biện pháp khám người theo thủ tục hành
chính.
- Pháp lệnh XLVPHC cũng chưa có các quy định riêng
khi áp dụng biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm XLVPHC đối với NCTN.
Một số biện pháp mặc dù có đề cập đến nhưng chỉ mang tính chất đơn
lẻ trong một số giai đoạn nhất định của thủ tục áp dụng. Ví dụ: quy
định về việc bắt buộc phải báo cho cha, mẹ hoặc người giám hộ của
NCTN khi quyết định tạm giữ họ vào ban đêm hoặc giữ trên sáu giờ;
quy định về việc trường hợp đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lãnh
hành chính là NCTN thì giao cho gia đình người đó chịu trách nhiệm
bảo lãnh… Bên cạnh đó, quy định cần thiết phải rõ ràng, cụ thể hơn
hoặc quy định riêng để áp dụng thống nhất đối với NCTN nhưng pháp
luật hiện hành chưa ghi nhận. Ví dụ: việc đưa người nghiện ma tuý,
người bán dâm không có nơi cư trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại
cơ sở chữa bệnh. Mặc dù, Khoản 3 Điều 20 Nghị định số 43/2005/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 05/4/2005 đã tách riêng đối tượng là NCTN để quản
lý nhưng chưa quy định cụ thể việc quản lý như thế nào? Thực trạng
pháp luật đã thể hiện sự quan tâm chưa đúng mức, toàn diện đến việc
bảo đảm quyền của NCTN đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992; Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và Công ước Quốc tế về
quyền trẻ em năm 1989.
3. Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp ngăn chặn vi
phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính
Để hoàn thiện pháp luật về XLVPHC nói chung, pháp
luật về các biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm XLVPHC nói riêng
theo hướng pháp điển hoá, hệ thống hoá nhằm xây dựng Luật XLVPHC có
chất lượng cao, bảo đảm tính khả thi, nâng cao hiệu quả của việc
XLVPHC, tăng cường tác dụng răn đe, giáo dục người vi phạm, Dự thảo
Luật đã kết cấu các biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm XLVPHC thành
một phần gồm hai chương tương đối độc lập, rõ ràng, minh bạch với
những nội dung mới như sau:
3.1. Đa đạng các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành
chính và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
Về cơ bản, các biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm
XLVPHC vẫn giữ theo Pháp lệnh XLVPHC hiện hành. Tuy nhiên, Luật có
bổ sung quy định Áp giải người vi phạm. Biện pháp này được áp dụng
nhằm cưỡng chế đưa người vi phạm về trụ sở cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi người vi phạm không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người
có thẩm quyền trong các trường hợp:
a) Đưa đối tượng bỏ trốn trở lại cơ sở giáo dục,
trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh;
b) Tiến hành tạm giữ người theo thủ tục hành chính.
Đây là một điểm mới của Luật XLVPHC. Quy định này
xuất phát từ thực tế thi hành xử lý hành chính thời gian qua, nhiều
đối tượng vi phạm có hành vi chống đối quyết liệt người có thẩm
quyền thực thi công vụ hoặc bỏ trốn khỏi địa phương để tránh việc bị
áp dụng các hình thức XLHC. Nhiều trường hợp người vi phạm không
chấp hành, người có thẩm quyền không có biện pháp xử lý thích hợp
theo quy định pháp luật để có thể hoàn thành công vụ của mình. Do
đó, việc quy định biện pháp cưỡng chế áp dụng người vi phạm để ghi
nhận công khai thẩm quyền của người giao áp dụng biện pháp xử lý
hành chính, tạo điều kiện cho họ xử lý các trường hợp đặc biệt trên
thực tế một cách hợp pháp.
Liên quan đến biện pháp áp giải, Luật chỉ ghi nhận
việc áp dụng biện pháp áp giải đối với người vi phạm, không áp dụng
đối với phương tiện; tuy nhiên, vấn đề này hiện cũng còn nhiều ý
kiến khác nhau. Bên cạnh đó, xung quanh thuật ngữ áp giải và dẫn
giải, một số ý kiến đề nghị cân nhắc nên sử dụng thuật ngữ dẫn giải
thay cho áp giải. Dự thảo Luật theo hướng dùng thuật ngữ “áp giải”
với tính chất là biện pháp dẫn giải có vũ trang được áp dụng để buộc
đối tượng đi đến một địa điểm đã định theo lệnh của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoặc trong trường hợp khác do pháp luật quy định. Áp
giải thường được áp dụng đối với người có lệnh gọi của nhà chức
trách nhưng họ không tự nguyện đến hoặc có cơ sở để nghi ngờ họ sẽ
trốn chạy. Áp giải một người phải có quyết định bằng văn bản của cơ
quan có thẩm quyền. Trong trường hợp người bị áp giải chống đối bằng
vũ lực thì người áp giải có quyền sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ
theo quy định của pháp luật.
3.2. Vấn đề huỷ bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
Đây cũng là một nội dung mới phù hợp với chuẩn mực và
yêu cầu của luật pháp quốc tế đã được thể hiện trong Luật XLVPHC.
Theo đó, trong trường hợp việc áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm XLVPHC không còn phù hợp với mục đích và điều kiện áp dụng biện
pháp đó theo quy định của Luật thì quyết định áp dụng biện pháp ngăn
chặn đã ban hành phải được huỷ bỏ.
Người có thẩm quyền ban hành quyết định áp dụng biện
pháp ngăn chặn và bảo đảm XLVPHC quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn
chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng một biện
pháp ngăn chặn khác.
3.3. Biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Dự thảo luật đã quy định kéo dài thời hạn tạm
giữ người theo thủ tục hành chính lên không được quá 72 giờ đối với
người vi phạm quy chế biên giới hoặc VPHC ở vùng rừng núi xa xôi,
hẻo lánh, hải đảo hoặc trong trường hợp cần phải điều tra, xác minh
đối với vụ việc phức tạp. Quy định tăng thời hạn tạm giữ người theo
thủ tục hành chính là hết sức cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho
người có thẩm quyền tiến hành xác minh những tình tiết quan trọng để
làm căn cứ cho quyết định XLVPHC.
Về thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính,
Luật đã bổ sung thêm một số chức danh nhằm bảo đảm tính hiệu quả
trong hoạt động quản lý. Ví dụ: bổ sung chức danh Chủ tịch UBND
phường, Trưởng phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp,
Trưởng phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, người chỉ
huy tàu hỏa khi tàu hỏa rời nhà ga.
Bên cạnh đó, luật cũng quy định trách nhiệm của cơ
quan có chức năng phòng, chống vi phạm pháp luật thường xuyên phải
tạm giữ người VPHC phải bố trí, thiết kế, xây dựng nhà tạm giữ hành
chính hoặc buồng tạm giữ hành chính riêng, trong đó có nơi tạm giữ
riêng cho NCTN, phụ nữ, người nước ngoài và phải có cán bộ chuyên
trách quản lý, bảo vệ. Nghiêm cấm việc giữ người VPHC trong các
phòng tạm giữ, phòng tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm
vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ. Quy định này đã thể hiện rất
rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền của
NCTN, phụ nữ, người nước ngoài đã được ghi nhận tại Hiến pháp 1992;
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Công ước Quốc tế
về quyền trẻ em năm 1989; Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị...
3.4. Biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề
Đối với biện pháp này, để phù hợp với tình hình thực
tiễn, nội dung mới được bổ sung quan trọng nhất là quy định về việc
tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề bên cạnh tang vật, phương
tiện VPHC, như: “cá nhân, tổ chức VPHC thuộc trường hợp bị áp dụng
hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
thì có thể bị tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề để bảo đảm thi
hành quyết định xử phạt. Việc tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề
không ảnh hưởng quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá
nhân, tổ chức đó”.
Để khắc phục tình trạng nhiều trường hợp đối tượng
VPHC có đủ thời gian và điều kiện cất giấu, tẩu tán tang vật, phương
tiện VPHC, Luật đã sửa đổi quy định về thẩm quyền tạm giữ tang vật,
phương tiện VPHC cũng như cách thức xử lý đối với từng trường hợp cụ
thể theo hướng mở rộng thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện
VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Theo đó, người có thẩm quyền
áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để VPHC (Chương II Phần thứ hai của Luật) thì có thẩm quyền tạm
giữ tang vật, phương tiện được sử dụng để VPHC. Trong trường hợp có
căn cứ để cho rằng, nếu không tạm giữ ngay thì tang vật, phương tiện
VPHC có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ thì chiến sỹ cảnh sát nhân dân, bộ
đội biên phòng, kiểm lâm viên, nhân viên Hải quan, kiểm soát viên
thị trường hoặc thanh tra viên chuyên ngành phải lập biên bản và tạm
giữ ngay tang vật, phương tiện VPHC. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo thủ trưởng của
mình là một trong những người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương
tiện VPHC được quy định tại đoạn 1 khoản này để xem xét ra quyết
định tạm giữ; trong trường hợp không ra quyết định tạm giữ thì phải
trả lại ngay tang vật, phương tiện đã bị tạm giữ. Đối với trường hợp
tang vật là hàng hóa dễ hư hỏng thì người ra quyết định tạm giữ phải
báo cáo ngay thủ trưởng trực tiếp để quyết định việc xử lý.
3.5. Biện pháp bảo lãnh hành chính
Nhằm khắc phục tình trạng quy định khung như Pháp
lệnh XLVPHC, Luật đã ghi nhận khá chi tiết về điều kiện, thời hạn,
thủ tục áp dụng biện pháp bảo lãnh hành chính; trách nhiệm của các
cơ quan có thẩm quyền như UBND cấp xã, gia đình và tổ chức xã hội
được giao bảo lãnh (trong đó có một số quy định về NCTN).
3.6. Biện pháp đưa người nghiện ma tuý, người bán dâm
không có nơi cư trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa
bệnh
Đây là một biện pháp chưa có trong Pháp lệnh XLVPHC
mà được ghi nhận trong Nghị định số 43/2005/NĐ-CP ngày 05/4/2004 của
Chính phủ quy định việc đưa người nghiện ma tuý, người bán dâm không
có nơi cư trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh.
Điều cần lưu ý là mặc dù NCTN nghiện ma tuý không bị
áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh nhưng tại Điều
9 Luật Phòng, chống ma tuý năm 2000 quy định những đối tượng này đã
được cai nghiện tại cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại
xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện thì bị đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc dành riêng cho họ và việc cai nghiện này không bị
coi là đã bị XLVPHC. Trường hợp họ bỏ trốn thì vẫn phải áp dụng biện
pháp truy tìm đối với họ. Đối với NCTN từ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi
mà tự nguyện hoặc được gia đình làm đơn xin cai nghiện thì cũng được
nhận vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.
Như vậy, đối với các đối tượng không có nơi cư trú
nhất định mà thuộc diện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng,
cơ sở giáo dục thì chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện. Và đương
nhiên cũng chưa có quy định về việc truy tìm họ trong thời gian làm
thủ tục hồ sơ ra quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục đối với họ mà họ bỏ trốn, kể cả đối tượng
là NCTN. Trước thực trạng đó, Bộ Công an đã có Công văn số
405/BCA-C11 ngày 07/3/2008 báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chính
phủ ban hành Nghị định quy định cụ thể thời gian, thủ tục, thẩm
quyền áp dụng lưu giữ tạm thời đối với các đối tượng đã có quyết
định đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Văn phòng Chính phủ
đã nhất trí “giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các
cơ quan có liên quan xây dựng Dự thảo Nghị định quy định cụ thể thời
gian, thủ tục, thẩm quyền áp dụng lưu giữ tạm thời đối với đối tượng
đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, báo cáo
Uỷ ban thường vụ Quốc hội trước khi trình
Chính phủ”.
Luật Xử phạt hành chính về an ninh trật tự của Trung
Quốc (sửa đổi năm 2005 và có hiệu lực từ 01/3/2006) cũng cho phép
cảnh sát áp dụng hình thức xử phạt giam hành chính có thời hạn. Bộ
luật xử phạt VPHC của Cộng hòa Liên bang Nga năm 2001 cũng quy định
giam giữ hành chính là một trong tám hình thức xử phạt... Đối với
vấn đề này, khi vận dụng vào pháp luật Việt Nam, theo chúng tôi, cần
có sự tính toán thêm để làm sao bảo đảm được tính đồng bộ về mặt
pháp lý trong việc quy định về biện pháp “lưu giữ tạm thời” nói
chung đối với đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh, trường giáo dưỡng; đồng thời cũng cần tính toán về
hiệu lực pháp lý của các quy định này theo hướng cân nhắc ban hành
Nghị định của Chính phủ hay đưa vào Dự thảo Luật XLVPHC đang trong
quá trình hoàn thiện. |