Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định những phương hướng
cần thực hiện để đạt mục tiêu xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh
tế của chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh cũng nêu rõ, để thực hiện được
những phương hướng này, cần phải giải quyết tốt các mối quan hệ lớn,
trong đó có mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (XHCN)5.
Nhiệm vụ này đặt ra cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các
chủ thể khác tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật yêu cầu tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, phù hợp với quá trình
phát triển và đặc thù của quan hệ lao động (QHLĐ) trong bối cảnh
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập quốc
tế.
Để đạt được mục đích đó, chúng ta phải đi từ việc
nhận định hệ thống pháp luật, văn bản pháp luật lao động hiện hành
để xác định mô hình phù hợp.
1. Pháp luật về
lao động - một hệ thống pháp luật phức tạp, nhiều tầng nấc
Từ ngày Bộ luật Lao
động (BLLĐ) có hiệu lực đến nay (01/01/1995), một môi trường pháp lý
mới về lao động đã được thiết lập. Hệ thống các văn bản pháp luật
lao động ngày càng được bổ sung, hoàn thiện đã góp phần quan trọng
vào việc định hướng chính sách, hướng dẫn hành động và từng bước
thiết lập kỷ cương trên thị trường lao động cũng như trong hoạt động
quản lý nhân lực, đồng thời là những căn cứ pháp lý chủ yếu để áp
dụng giải quyết các tranh chấp lao động, những phát sinh trong quá
trình lao động…
Trải qua 16 năm thực
hiện, để thích ứng với những thay đổi của quá trình phát triển QHLĐ
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào các năm
2002, 2006, 2007. Bên cạnh Bộ luật mang tính tổng hợp này, trong năm
2006, Quốc hội còn ban hành các luật chuyên ngành điều chỉnh cụ thể
một số nội dung của QHLĐ trên cơ sở những nguyên tắc mà BLLĐ đã quy
định như Luật Bảo hiểm xã hội (mở rộng phạm vi điều chỉnh, đối tượng
áp dụng, quy định thêm chính sách bảo hiểm xã hội, cụ thể
hoá Chương XII về Bảo hiểm xã hội thuộc BLLĐ),
Luật Dạy nghề (mở rộng phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, cụ thể
hoá Chương III về Học nghề của BLLĐ), Luật
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (mở
rộng phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, cụ thể
hoá nội dung về Lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tại
Chương IX BLLĐ).
Đi kèm theo BLLĐ và
các luật chuyên ngành nêu trên, Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội, các bộ, ngành hữu quan đã ban hành hàng chục nghị định,
thông tư hướng dẫn thi hành tạo nên một hệ thống văn bản pháp luật
về lao động hết sức cồng kềnh, phức tạp. Điều này xuất phát từ bản
thân hệ thống pháp luật lao động tuy đã có những văn bản pháp luật
có hiệu lực cao nhưng không cụ thể, chi tiết để có thể áp dụng chúng
một cách trực tiếp, độc lập. Ngay BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần nhưng tính chất “luật khung” vẫn còn khá rõ nét. Các văn
bản hướng dẫn BLLĐ được giao cho nhiều cơ quan khác nhau ban hành,
lại được ban hành ở những thời điểm khác nhau tạo nên một tổng thể
quy phạm pháp luật (QPPL) về lao động tản mạn, chồng chéo, khó tra
cứu, khó áp dụng đúng trong mối tương quan với cả hệ thống pháp
luật.
Bên cạnh đó, có một
thực tế là nhiều nội dung khác thuộc phạm vi điều chỉnh của BLLĐ
cũng đang được đề xuất để ban hành các đạo luật riêng như Luật Hợp
đồng lao động, Luật Thoả ước lao động tập thể,
Luật Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, Luật Bảo hiểm hưu trí,
Luật Bảo hiểm ốm đau, thai sản, Luật Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, Luật Bảo hiểm thất nghiệp, Luật Tiền lương tối thiểu,
Luật Việc làm, Luật An toàn - vệ sinh lao động...
Như vậy, một thách
thức không nhỏ đặt ra hiện nay là hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung và hệ thống pháp luật lao động nói riêng đang tồn tại hết sức
phức tạp, nhiều tầng nấc, nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác
nhau. Sự phức tạp của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
về lao động khiến cho các nhà lập pháp, khi chuẩn bị sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành một văn bản mới, bên cạnh việc đề xuất, phân tích
chính sách còn phải quan tâm đến việc xây dựng mô hình văn bản pháp
luật về lao động sao cho thực sự khoa học, hợp lý, hạn chế được
những bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn đang hiện hữu.
2. Quan niệm pháp
điển, bộ luật, đạo luật hay văn bản dưới luật
Nhìn lại quá trình
hình thành và phát triển hệ thống pháp luật về lao động, có thể thấy
rằng, BLLĐ cũng như nhiều bộ luật khác là sản phẩm của quan niệm
truyền thống coi pháp điển hoá là một hoạt
động lập pháp với kết quả cuối cùng là một VBQPPL mới được ban hành
có mức độ tổng hợp, khái quát cao thường được gọi là các bộ luật.
Đây đã từng trở thành một xu hướng ở nước ta trong thập niên cuối
của thế kỷ trước. Việc pháp điển nhiều quy phạm riêng lẻ, lộn xộn
trong nhiều văn bản quy phạm có giá trị pháp lý thấp vào một đạo
luật của Quốc hội, đặc biệt lại là một bộ luật với những phần,
chương, mục đồ sộ nhằm mục đích xây dựng được một hệ thống pháp luật
thống nhất, khoa học và ổn định.
Tuy nhiên, thế giới
hiện nay đang trong giai đoạn biến đổi nhanh chóng, các quan hệ xã
hội mới phát sinh cũng như thay đổi liên tục đòi hỏi nhà lập pháp
phải có những phản ứng tức thời, trong khi đó quá trình chuẩn bị cho
việc ra đời của những bộ luật đồ sộ thường gặp nhiều khó khăn và mất
rất nhiều thời gian, quy trình thảo luận, xem xét, thông qua cũng
như sửa đổi, bổ sung các quy định trong các bộ luật này tại Quốc hội
hoàn toàn không đơn giản. Vì vậy, các bộ luật mới ra đời muốn bảo
đảm tính linh hoạt thì lại thường phải dừng ở mức độ “luật khung,
luật ống”, thiếu các quy định chi tiết, rõ ràng, và do đó, ý nghĩa
thực tiễn của các văn bản hướng dẫn thi hành nhiều khi lại vượt qua
cả các văn bản luật gốc. Chính vì bất cập này, một quá trình ngược
lại đang dần diễn ra trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đó là một số bộ luật như Bộ luật Dân sự, BLLĐ... đã được rút nhiều
chế định quan trọng để xây dựng các đạo luật riêng nhằm đáp ứng nhu
cầu chi tiết, cụ thể, ngắn gọn và nhanh chóng đi vào cuộc sống của
các QPPL. Điều này dẫn đến những băn khoăn cả trong giới nghiên cứu
và các nhà hoạt động thực tiễn, rằng liệu chúng ta chỉ nên ban hành
bộ luật, hay chỉ ban hành đạo luật chuyên ngành, hay kết hợp cả hai
mô hình này?
Bên cạnh đó, hiện
cũng có một luồng quan điểm khác cho rằng, nếu để đáp ứng sự thay
đổi, vận động không ngừng của các QHLĐ thì không nên ban hành các
đạo luật mà nên để điều chỉnh trong các văn bản dưới luật. Ưu điểm
của phương pháp này là văn bản dưới luật dễ sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới, có thể cụ thể, chi tiết ngay để nhanh chóng đi vào cuộc
sống.
Như vậy, một câu hỏi
lớn đặt ra đối với các nhà lập pháp là làm thế nào để duy trì sự ổn
định, thống nhất của hệ thống pháp luật về lao động, vừa bảo đảm
tính điều chỉnh hiệu quả của các QPPL về lao động trong đời sống xã
hội khi mà bản thân QHLĐ là một dạng thức quan hệ xã hội hết sức
phức tạp, đa chiều và vận động không ngừng? Chúng ta nên lựa chọn
phương án nào trong các mô hình pháp luật về lao động đã nêu ở trên?
Chúng tôi cho rằng,
trước hết, nếu xét về phương án chỉ ban hành văn bản dưới luật về
lao động là không khả thi, bởi lẽ nếu theo phương án này thì chính
chúng ta lại quay lại thời kỳ chưa xuất hiện BLLĐ, các quy phạm điều
chỉnh về QHLĐ nằm riêng lẻ, rời rạc, thiếu tính hệ thống và khó kiểm
soát trong rất nhiều VBQPPL khác nhau và không có giá trị pháp lý
cao. Có thể thấy rằng, việc ban hành văn bản dưới luật để điều chỉnh
QHLĐ thay cho các đạo luật đã không còn phù hợp trong điều kiện
chúng ta hướng tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN mà trong
đó, các đạo luật sẽ giữ vai trò cơ bản trong điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
Về phương án lựa
chọn ban hành bộ luật hay đạo luật chuyên ngành, qua nghiên cứu thấy
rằng, chúng ta không thể phủ nhận giá trị lớn mà BLLĐ đem lại trong
việc tạo ra một hệ thống các khái niệm, thuật ngữ, những nguyên tắc
chung trong QHLĐ mang tính thống nhất, ổn định và là tiêu chuẩn cho
tất cả các đạo luật chuyên ngành về QHLĐ. Đồng thời, cũng thấy rõ
việc ban hành các luật chuyên ngành về từng lĩnh vực của QHLĐ lại
đáp ứng được yêu cầu về tính chuyên sâu, điều chỉnh cụ thể, chi
tiết, tránh tình trạng luật khung, luật ống, tốn kém thời gian cho
việc xây dựng, dự thảo như bộ luật đồ sộ. Nghĩa là dù tồn tại dưới
hình thức bộ luật hay luật, thì những VBQPPL này đều có giá trị nhất
định đối với việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về lao động.
3. Mô hình xác
định
Với những ưu, nhược
điểm nhất định của các phương án đã nêu ở trên, soi chiếu vào thực
trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, việc tiếp tục kết
hợp bộ luật tổng hợp với các đạo luật chuyên ngành đang là cần
thiết. Bởi lẽ, với vai trò là một bộ luật chung, BLLĐ sẽ thiết lập
và duy trì một hệ thống khái niệm, thuật ngữ, những nguyên tắc chung
đặt nền móng cho việc xây dựng các đạo luật chuyên ngành trong
trường hợp cần thiết. Các đạo luật chuyên ngành được xây dựng đáp
ứng nhu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên cơ sở những giá
trị chung nhất mà BLLĐ đã khẳng định, nhằm bảo đảm tính thống nhất
của hệ thống pháp luật về lao động, đồng thời mỗi đạo luật chuyên
ngành cũng có thể được xây dựng ngắn gọn, cô đọng, cụ thể, chi tiết
hơn mà không phải nhắc lại, dẫn chiếu lại những nội dung đã được quy
định trong BLLĐ. Để rút ngắn quá trình xây dựng văn bản luật, có thể
xem xét áp dụng phương pháp một luật sửa nhiều luật đối với những
nội dung có liên quan chặt chẽ đến nhau thuộc các văn bản luật khác
nhau mà việc sửa đổi nội dung này sẽ dẫn đến thay đổi nội dung tương
ứng ở văn bản khác. Vì vậy, chúng tôi tán thành với quan điểm trước
mắt cần sửa đổi cơ bản BLLĐ hiện hành nhằm điều chỉnh các nội dung
chung pháp luật về lao động và QHLĐ, đồng thời nghiên cứu xem xét
khả năng ban hành một số đạo luật chuyên ngành để quy định chuyên
sâu một số vấn đề như tiền lương, việc làm, vệ sinh, an toàn lao
động... Tuy nhiên, việc ban hành các văn bản này phải phù hợp với xu
thế chung là cần phải quy định chi tiết, cụ thể tối đa; giảm dần
việc ban hành thông tư, nghị định.
Về dài hạn, cần
nghiên cứu xây dựng mô hình Bộ pháp điển về từng lĩnh vực như đã
được xác định tại Luật Ban hành VBQPPL năm 2008. Khác với quan niệm
truyền thống coi pháp điển hóa là một hoạt động lập pháp với kết quả
cuối cùng là một VBQPPL mới được ban hành có mức độ tổng hợp, khái
quát cao thường được gọi là các bộ luật, luật như đã nêu ở trên,
Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 đã đặt nền móng cho một quan niệm pháp
điển hóa tiếp cận hoàn toàn dưới góc độ kỹ thuật, coi pháp điển hóa
không phải là việc xây dựng những bộ luật lớn mà chính là việc thu
thập, tổ chức, công bố, cập nhật liên tục toàn bộ các QPPL đang có
hiệu lực thi hành trong một Bộ pháp điển được sắp xếp theo chủ đề.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, “2.
QPPL phải được rà soát, tập hợp, sắp xếp thành Bộ pháp điển theo
từng chủ đề. Việc pháp điển hệ thống QPPL do Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quy định”. Trên cơ sở đó, các cơ quan có trách nhiệm ở nước ta
đã tiến hành thí điểm Bộ pháp điển về tổ chức, hoạt động của Quốc
hội2 và Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ3.
Theo một số chuyên gia, phương pháp tiếp cận pháp điển hóa dưới góc
độ kỹ thuật sẽ giúp giải quyết một số vấn đề như: Ít tốn kém cả về
thời gian, công sức và tiền của so với việc xây dựng các bộ luật
lớn; Có tính khả thi so với mặt bằng trình độ làm luật chung ở thời
điểm hiện nay vì ít đòi hỏi sự can thiệp, chỉ đạo của các cơ quan
làm chính sách; Bảo đảm tính linh hoạt, dễ cập nhập và nhanh chóng
thích nghi, phù hợp với điều kiện hạ tầng xã hội vẫn đang biến
chuyển liên tục như hiện nay4.
Cụ thể hóa quan điểm
này của Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, dự án Pháp lệnh Pháp điển hệ
thống QPPL do Chính phủ đang trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét
quyết định cần quy định theo hướng Pháp điển là việc cơ quan nhà
nước thu thập, rà soát, tập hợp, sắp xếp các QPPL còn hiệu lực thành
Bộ pháp điển theo chủ đề. Đồng thời, trong Pháp lệnh này cũng cần
quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp điển.
Có thể hình dung Bộ
pháp điển đó như một ngôi nhà (tương ứng với tổng thể các quan hệ xã
hội cần được pháp luật điều chỉnh), mỗi một ngành luật, trong đó có
ngành luật lao động (bao gồm toàn bộ những QPPL hiện hành về lao
động) được bố trí cho một phòng trong ngôi nhà đó (tương ứng với một
Chủ đề của Bộ pháp điển). Theo đó, các quy định của pháp luật lao
động về một vấn đề cụ thể sẽ được đưa vào đó với sự sắp xếp theo
trật tự nhất định. Việc xác định trật tự này như thế nào là
một vấn đề quan trọng cần được đầu tư nghiên cứu. Một phương án đang
được nhiều quan điểm ủng hộ là nên xác định tên và cấu trúc của mỗi
Chủ đề theo tên và cấu trúc của VBQPPL có giá trị pháp lý cao nhất (văn
bản gốc). Chẳng hạn, với nhóm QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội về
lao động, BLLĐ có giá trị pháp lý cao nhất. Do đó, Chủ đề của nhóm
QPPL này trong Bộ pháp điển sẽ là Chủ đề lao động; trong BLLĐ có bao
nhiêu Phần, Chương, Mục thì trong Chủ đề lao động cũng có các cấu
trúc tương ứng, theo đó, toàn bộ nội dung của BLLĐ sẽ được đưa vào
Chủ đề lao động của Bộ pháp điển theo đúng vị trí của nó trong Bộ
luật; các văn bản hướng dẫn VBQPPL gốc sẽ được phân loại theo từng
phần; phần hướng dẫn điều khoản nào trong VBQPPL gốc sẽ được đưa vào
ngay dưới điều đó, tạo thành một chỉnh thể thống nhất các QPPL về
cùng một nội dung lần lượt từ cao xuống thấp theo thứ bậc giá trị
pháp lý.
Khi đó, việc sửa
đổi, bổ sung một văn bản pháp luật về lao động, bất kể đó là bộ
luật, luật, nghị định hay thông tư, thì những sửa đổi đó sẽ được cập
nhật vào đúng vị trí của nó trong Bộ pháp điển; việc ban hành một
VBQPPL chỉ đơn thuần là quy trình, thủ tục của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để bảo đảm tính pháp lý cần thiết của QPPL, còn văn bản
được sử dụng, cập nhập hằng ngày chính là Bộ pháp điển. Nhìn vào Bộ
pháp điển đó ta có thể nhìn thấy tổng thể các QPPL điều chỉnh từng
vấn đề của QHLĐ, từ văn bản có giá trị pháp lý cao đến các văn bản
hướng dẫn thi hành, những mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu sót cần phải
sửa đổi, bổ sung trong các quy phạm khi đặt chúng cạnh nhau cũng sẽ
tự bộc lộ và sẽ là một khuyến nghị cần thiết đối với nhà lập pháp để
kịp thời khắc phục cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Như vậy, sau khi đã xây dựng thành công Bộ pháp điển
theo chủ đề, mỗi khi có sự thay đổi đối với bất kỳ QPPL nào nằm
trong Bộ pháp điển thì việc cập nhật quy phạm đó vào Bộ pháp điển
cũng rất thuận lợi, vì chỉ phải tác động riêng đến quy phạm có sự
thay đổi đó. Trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đang có
nhiều biến chuyển, việc sửa đổi, bổ sung các QPPL là một việc làm
tất yếu và diễn ra tương đối thường xuyên. Do đó, với việc các QPPL
được pháp điển lại trong từng Chủ đề của Bộ pháp điển sẽ giúp cho
việc sửa đổi, bổ sung chỉ tập trung vào một số QPPL. Điều này làm
cho hoạt động xây dựng pháp luật bớt đi được các thủ tục rườm rà,
kịp thời sửa đổi, bổ sung các QPPL cần thiết, đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước, quản lý xã hội; đồng thời, cũng góp phần giảm tải khối
lượng công việc xây dựng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây
dựng, ban hành VBQPPL. |