“Đưa
vào trường giáo dưỡng” là một trong những biện pháp xử lý hành
chính (XLHC) khác được quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính (XLVPHC) năm 2002. Biện pháp này do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân (UBND) cấp huyện áp dụng đối với người chưa thành niên (NCTN)
từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật về an ninh,
trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Đưa vào trường giáo dưỡng (TGD) là biện pháp XLHC
có lịch sử tồn tại khá lâu. Mặc dù, Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 là
văn bản có giá trị pháp lý cao nhất lần đầu tiên quy định biện
pháp này, nhưng thực tiễn lịch sử đấu tranh giữ gìn, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội mấy chục năm qua, Việt
Nam đã từng sử dụng một số biện pháp xử lý người vi phạm pháp
luật có nội dung, mục đích giống biện pháp đưa vào TGD1.
Tính đến thời điểm hiện nay, Pháp lệnh XLVPHC đã qua một số lần
sửa đổi, bổ sung (năm 2002, 2008), các quy định về áp dụng biện
pháp đưa vào TGD vẫn được kế thừa và dần được sửa đổi, bổ sung
phù hợp với từng thời kỳ.
Sự tồn tại và phát triển của các quy định về áp
dụng biện pháp đưa vào TGD qua các giai đoạn đã khẳng định vai
trò, tầm quan trọng của chế tài pháp lý này trong đấu tranh
phòng, chống vi phạm pháp luật nói chung và phòng, chống vi phạm
hành chính nói riêng. Đây là chế tài pháp lý vừa mang tính cưỡng
chế vừa thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta. Mục đích áp dụng
biện pháp này xuất phát từ lợi ích của NCTN có hành vi vi phạm
pháp luật, cách ly các em khỏi môi trường xã hội trong một thời
gian nhất định để quản lý, giáo dục và tạo dựng môi trường mới,
giúp các em sửa chữa những sai phạm của mình và có điều kiện học
văn hoá, giáo dục pháp luật, hướng nghiệp,
dạy nghề, sinh hoạt lành mạnh.
Mặc dù vậy, đưa vào TGD vẫn là một biện pháp tước
tự do. Trong khi đó, theo Công ước của Liên hợp quốc về Quyền
trẻ em (CƯQTE), tước tự do là loại chế tài nghiêm khắc nhất có
thể áp dụng đối với NCTN vi phạm pháp luật, do đó chỉ được phép
áp dụng sau cùng, đối với NCTN thực hiện các vi phạm pháp luật
nghiêm trọng mang tính bạo lực hoặc tái phạm nhiều lần. Qua hơn
20 năm thực hiện CƯQTE, trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội
của Việt Nam có nhiều thay đổi vượt bậc, Việt Nam đã trở thành
nước có thu nhập trung bình ở mức thấp,
đã đến lúc phải
nhìn nhận lại để từng bước hạn chế phạm vi áp dụng biện pháp đưa
vào TGD, thay thế bằng các biện pháp xử lý tại cộng đồng.
Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng biện pháp này
trong thời gian qua có những khó khăn, vướng mắc nhất định Vì
những lý do đó, Dự án Luật XLVPHC có nhiều đề xuất để cải cách
việc áp dụng chế tài đưa vào TGD theo hướng ngày càng phù hợp
hơn với các chuẩn mực quốc tế; tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn; tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật của NCTN.
1. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng
Theo quy định tại Điều 105 Dự án Luật XLVPHC
thì đưa vào TGD là biện pháp XLHC áp dụng đối với NCTN vi phạm
pháp luật thuộc các trường hợp sau:
1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại Bộ luật Hình sự (BLHS).
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiệm trọng do vô ý
quy định tại BLHS.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy
định tại BLHS mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú ổn định.
4. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần
thực hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây
rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này
mà không có nơi cư trú ổn định.
Như vậy, về cơ bản, đối tượng áp dụng biện pháp
đưa vào TGD quy định tại Dự án Luật XLVPHC có sự kế thừa các
quy định của Pháp lệnh XLVPHC năm 20022 nhưng cũng
có những sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
- Đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi,
nhằm mục đích hạn chế tối đa việc áp dụng chế tài hành chính nói
chung và việc tách họ ra khỏi môi trường gia đình, xã hội, Dự án
Luật chỉ quy định áp dụng biện pháp đưa vào TGD khi họ thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại BLHS. Đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực
hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng, Dự
án Luật không quy định áp dụng biện pháp XLHC đối với hành vi do
lỗi vô ý, chỉ quy định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn đối với hành vi do lỗi cố ý. Dự án Luật không quy định
áp dụng biện pháp XLHC đối với đối tượng là người dưới 14 tuổi
thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng
hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại BLHS mà trước đó đã bị
áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị
áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định3.
- Dự án Luật điều chỉnh lại đối tượng bị áp dụng
biện pháp đưa vào TGD trên cơ sở tham khảo quy định tại Điều 8
và Điều 12 của BLHS về phân loại tội phạm và tuổi chịu trách
nhiệm hình sự theo hướng cụ thể, chính xác hơn và loại trừ
những trường hợp phạm tội của NCTN theo quy định phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, việc điều chỉnh lại đối
tượng áp dụng biện pháp này theo hướng hạn chế áp dụng đối với
người dưới 14 tuổi cũng dựa trên các nghiên cứu của Việt Nam và
thế giới về chính sách xử lý đối với NCTN vi phạm pháp luật. Các
nghiên cứu chỉ ra rằng, những trẻ em có hành vi vi phạm pháp
luật từ khi còn nhỏ tuổi thường là dấu hiệu cho thấy môi trường
gia đình hoặc xã hội mà các em đang sống có vấn đề. Do đó, biện
pháp tốt nhất là hướng tới giải quyết những vấn đề đó thay vì
trừng phạt bản thân đứa trẻ. Theo quy định của luật pháp quốc tế,
những NCTN được miễn trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự cần được hưởng các biện pháp bảo vệ đặc biệt
chứ không phải bị xử lý trong một hệ thống hoặc quy trình xử lý
khác.
- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi,
Dự án Luật chỉ quy định áp dụng biện pháp đưa vào TGD khi thực
hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiệm trọng do vô
ý quy định tại BLHS; thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại BLHS mà trước đó đã bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp
dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định.
- Bên cạnh đó, Dự án Luật XLVPHC bổ sung quy
định loại trừ, theo đó, biện pháp đưa vào TGD không áp
dụng đối với NCTN là nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ
dưới 36 tháng tuổi. Quy định này thể hiện chính sách nhân
đạo của Nhà nước để bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em là
con của đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào TGD, đồng thời
bảo đảm tính khả thi và tính hiệu quả của việc áp dụng biện pháp
đối với NCTN vi phạm pháp luật.
2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng
Một trong những vấn đề được đưa ra bàn thảo và
tranh luận nhiều nhất trong quá trình xây dựng dự án Luật XLVPHC
là việc quy định thủ tục “tư pháp” triệt để hay “bán tư pháp”
khi áp dụng các biện pháp XLHC, trong đó có biện pháp đưa vào
TGD.
Theo phương án “tư pháp” triệt để, thẩm quyền áp
dụng biện pháp XLHC đưa vào TGD được giao cho
Toà án nhân dân quyết định theo trình tự, thủ tục tố tụng tư
pháp, xét xử tại toà. Các ý kiến theo
phương án này cho rằng, xét về bản chất thì các biện pháp XLHC
là những biện pháp cưỡng chế nhà nước hạn chế quyền tự do dân
chủ của công dân; do vậy, cần được xem xét quyết định theo một
trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp chặt chẽ, bảo đảm khách quan,
chính xác theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược cải cách tư pháp. Tuy nhiên, việc chuyển giao theo
phương án này cũng đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và tổ chức
thực hiện (thủ tục tố tụng, nhân lực, tổ chức bộ máy, cơ sở pháp
lý) cần được nghiên cứu thấu đáo trên cơ sở có lộ trình thích
hợp để chuẩn bị các điều kiện cần thiết mới có thể thực hiện
được.
Theo phương án “bán tư pháp”, thẩm quyền xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp XLHC đưa vào TGD tiếp tục được
giao cho Chủ tịch UBND cấp huyện nhưng có sửa đổi, bổ sung về
trình tự, thủ tục nhằm tạo cơ hội cho đối tượng bị xử lý và
đại diện hợp pháp của họ được giải thích, biện hộ cho hành vi
của mình, góp phần bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch,
công bằng, chính xác và hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp
XLHC. Theo phương án này, các bước của quy trình và hệ thống các
cơ quan tham gia xem xét, quyết định áp dụng đưa vào TGD cơ bản
không bị xáo trộn song vẫn có những cải cách, đổi mới cần thiết,
hữu hiệu để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp đưa vào
TGD. Như vậy, nếu xét về tính khả thi, hiệu quả của các phương
án, “bán tư pháp” là giải pháp mang tính khả thi cao hơn và vẫn
đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong việc cải cách thể chế, cải
cách bộ máy nhà nước và thực tiễn quản lý nhà nước trong điều
kiện kinh tế, xã hội cụ thể và trong bối cảnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, thẩm quyền áp dụng
biện pháp XLHC đưa vào TGD tại khoản 3 Điều 104 Dự thảo Luật
XLVPHC được thể hiện theo phương án này.
3. Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Về cơ bản, trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp
dụng biện pháp XLHC đưa vào TGD không thay đổi so với quy định
của pháp luật hiện hành, vẫn bao gồm các bước: Chủ tịch UBND cấp
xã lập hồ sơ gửi Chủ tịch UBND cấp huyện. Cơ quan Công an có
trách nhiệm giúp Chủ tịch UBND cùng cấp trong việc thu thập tài
liệu, lập hồ sơ. Sau khi thẩm tra, hoàn thiện hồ sơ, cơ quan
Công an gửi hồ sơ đến các thành viên của Hội đồng tư vấn. Tuy
nhiên, theo Pháp lệnh XLVPHC hiện hành thì việc lập hồ sơ
chỉ được quy định tại một điều, trong đó trình tự, thủ tục
tương đối rườm rà, phức tạp, các trường hợp áp dụng quy định
không rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình thực thi. Để quy
định này được rõ ràng và thuận lợi hơn trong quá trình thực thi,
việc lập hồ sơ đối với biện pháp đưa vào TGD trong Dự án Luật
được chia thành các trường hợp sau:
(i) Lập hồ sơ đối với NCTN vi phạm có nơi cư
trú ổn định thì Chủ tịch UBND cấp xã nơi người đó cư
trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào TGD.
(ii) Lập hồ sơ đối với NCTN vi phạm không có
nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch UBND cấp xã nơi người đó
có hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp
dụng biện pháp đưa vào TGD.
(iii) Trong trường hợp đối tượng do cơ quan Công
an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý thì
cơ quan Công an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu,
lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào TGD.
Để bảo đảm quyền được tham gia vào quá trình xem
xét, áp dụng biện pháp đưa vào TGD của đối tượng bị đề nghị áp
dụng hoặc người đại diện của họ, Dự án Luật bổ sung quy định sau
khi hoàn thành việc lập hồ sơ, cơ quan đã lập hồ sơ
phải thông báo cho đối tượng bị đề nghị áp dụng hoặc người đại
diện của họ về việc lập hồ sơ. Những người này được quyền đọc hồ
sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 05 ngày, kể
từ ngày nhận được thông báo. Sau khi người bị áp dụng hoặc
người đại diện của họ đọc xong thì hồ sơ được gửi cho Trưởng
Công an cấp huyện.
4. Thủ tục xét duyệt hồ sơ đề nghị áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Trình tự, thủ tục xét duyệt hồ sơ đề nghị
áp dụng biện pháp XLHC khác đưa vào TGD được quy định tại
Điều 75 và Điều 76 của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002. So với Pháp
lệnh XLVPHC năm 1995, Pháp lệnh năm 2002 đã sửa đổi, bổ sung
nhiều quy định về thủ tục xét duyệt hồ sơ đưa vào TGD theo hướng
rõ ràng, chặt chẽ hơn, thời gian xét duyệt cũng được rút ngắn
hơn nhằm bảo đảm nguyên tắc XLVPHC được tiến hành nhanh chóng,
công minh, triệt để. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành các quy định
của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 đến nay đã bộc lộ nhiều điểm hạn
chế, bất cập. Cụ thể là:
(i) Theo quy định tại Điều 94 Pháp lệnh XLVPHC
năm 2002, Hội đồng tư vấn (HĐTV) có chức năng tham mưu, tư vấn
cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Tuy nhiên, trên thực tế
hội đồng này lại có vai trò rất lớn, có thể nói là quan trọng
bậc nhất đối với việc có áp dụng biện pháp XLHC đối với đối
tượng vi phạm hay không. Trong khi đó, theo quy định hiện nay,
cách thức nghiên cứu, xét duyệt hồ sơ đề nghị xem xét áp dụng
biện pháp đưa vào TGD của HĐTV được tiến hành theo nguyên tắc
“án tại hồ sơ”. Thời gian làm việc ngắn trong khi số lượng đối
tượng nhiều, nội dung làm việc và kết luận của HĐTV chỉ đơn
thuần căn cứ vào hồ sơ, tài liệu do các cấp hành chính thu thập,
xác minh, không có thông tin đa chiều, không được nghe nội dung
bào chữa, biện hộ từ phía đối tượng, không có được các thông tin
đa dạng ngoài hồ sơ nên khả năng đưa ra kết luận phiến diện,
thiếu căn cứ khách quan, thiếu công bằng và không phù hợp với
thực quyền của HĐTV là rất lớn.
Đây cũng chính là một trong các điểm hạn chế của
thủ tục hành chính nói chung và thủ tục áp dụng biện pháp XLHC
khác nói riêng, trong đó có biện pháp đưa vào TGD. Nếu đối chiếu
với quy định của pháp luật quốc tế liên quan thì các quy định về
áp dụng biện pháp XLHC khác của chúng ta hiện nay chưa bảo đảm
được sự tương thích, phù hợp với chuẩn mực pháp luật quốc tế. Cụ
thể, theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về Các
quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam là thành viên thì “trong quá
trình xét xử mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn
bình đẳng những đảm bảo tối thiểu như được thông báo về bản chất
và lý do buộc tội, có đủ thời gian phù hợp để chuẩn bị bào chữa
và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; được có
mặt trong khi xét xử, được tự bào chữa, nhờ sự giúp đỡ về pháp
lý do mình lựa chọn hoặc nói lên tiếng nói của mình đối với
người có thẩm quyền trước khi ra phán quyết liên quan đến quyền
tự do của mình…”.
(ii) Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
XLHC hiện nay về tổ chức, thành phần, phương thức làm việc của
HĐTV cũng đang tồn tại một số điểm hạn chế, bất cập như: việc
lập hồ sơ đề nghị đưa vào TGD do cơ quan Công an thực hiện; đến
khi hồ sơ được xem xét tại HĐTV thì lãnh đạo cơ quan Công an lại
là Chủ tịch HĐTV (khoản 1 Điều 85 Pháp lệnh XLVPHC). Như vậy,
việc lập hồ sơ và xem xét quyết định của HĐTV liệu có đảm bảo
tính khách quan và chính xác hay không khi cơ quan Công an dường
như “độc diễn” trong quá trình này; không có sự kiểm tra, kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân như những năm trước đây để đảm
bảo tính khách quan, trung thực của vụ việc.
Hơn nữa, pháp luật quy định Chủ tịch UBND ra
quyết định thành lập HĐTV về việc áp dụng biện pháp XLHC nhưng
lại không có chức danh này trong HĐTV để tham gia trực tiếp vào
quá trình xem xét ra quyết định. Việc chủ trì cuộc họp của HĐTV
để xem xét có quyết định hay không quyết định áp dụng biện pháp
đối với đối tượng do thường trực HĐTV chủ động thực hiện4.
Sau khi HĐTV họp xong có văn bản đề nghị thì Chủ tịch UBND xem
xét, quyết định áp dụng biện pháp trên cơ sở hồ sơ, giấy tờ được
HĐTV trình lên mà thiếu sự xem xét công bằng và công khai với sự
tham gia của chính bản thân Chủ tịch UBND - người có thẩm quyền
ra quyết định hạn chế quyền tự do của đối tượng vi phạm.
(iii) Các quy định về vai trò, nhiệm vụ của các
thành viên HĐTV chưa rõ ràng, mới chỉ quy định cơ quan này tổ
chức họp mà chưa quy định cụ thể ai chủ trì, điều hành phiên
họp; diễn biến về cuộc họp có được ghi nhận lại bằng biên bản
hay không; nhiệm vụ của các thành viên trong cuộc họp xem xét hồ
sơ như thế nào. Điều này dẫn đến trên thực tế, nhiều cuộc họp
HĐTV không được tổ chức. Để hoàn thiện hồ sơ, cơ quan thường
trực phải lấy ý kiến nhận xét của từng thành viên HĐTV. Thực tế
này cho thấy, các quy định liên quan đến thẩm quyền tham gia quá
trình xem xét hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào TGD còn mang tính
hình thức.
Những bất cập, hạn chế nêu trên về thủ tục xét
duyệt hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào TGD theo
quy định của pháp luật XLVPHC hiện nay đã làm ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả thực thi pháp luật. Điều này đặt ra những yêu
cầu phải cải cách, đổi mới trình tự, thủ tục áp dụng theo hướng
mở rộng dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch hơn nhằm bảo
đảm quyền con người, pháp chế xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Vì vậy, dự án Luật XLVPHC lần này tiếp tục kế thừa các quy
định tại Điều 75, Điều 76 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 về lập hồ
sơ và HĐTV đưa vào TGD còn phù hợp với thực tiễn, đồng thời bổ
sung một số điểm mới sau:
Thứ nhất, Dự án Luật quy định rõ hơn các bước của
trình tự, thủ tục xét duyệt và thời gian thực hiện của từng cơ
quan, tổ chức liên quan để tổ chức thực hiện thống nhất, chặt
chẽ, minh bạch hơn.
Thứ hai, quy định cụ thể thành phần và phân định
rõ vai trò của các thành viên HĐTV. Chủ tịch HĐTV đồng thời
là Phó Chủ tịch UBND cấp huyện; thành viên thường trực
là Trưởng Công an cấp huyện và các thành viên là Trưởng
phòng Tư pháp, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã
hội cấp huyện, đại diện Hội Luật gia cùng cấp và đại
diện tổ chức xã hội có liên quan. Việc bổ sung quy định về sự
tham gia của tổ chức chính trị xã hội (Hội Luật gia cùng cấp) và
tổ chức xã hội trong thành phần HĐTV nhằm bảo vệ lợi ích tốt
nhất cho NCTN vi phạm pháp luật bị xem xét áp dụng biện pháp đưa
vào TGD.
Thứ ba, bổ sung quy định người bị xem xét áp dụng
biện pháp đưa vào TGD và cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của
người đó, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người đó (nếu
có) phải được mời tham gia cuộc họp của HĐTV và có quyền phát
biểu ý kiến của mình về việc bị áp dụng biện pháp đưa vào TGD. Ý
kiến của họ phải được ghi vào biên bản họp. Thành viên HĐTV có
trách nhiệm xem xét những ý kiến đó. Ý kiến của mỗi thành viên
HĐTV phải được thể hiện trong biên bản họp. Sự tham gia của bản
thân người bị đề nghị áp dụng biện pháp này, cha mẹ hoặc người
giám hộ hợp pháp, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ là
một điểm sửa đổi lớn, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền của NCTN bị đề
nghị áp dụng biện pháp này.
5. Các quy định về thi hành quyết định đưa vào
trường giáo dưỡng
Các nội dung về quyết định đưa vào TGD, thi hành
quyết định, thời hiệu thi hành quyết định, việc hoãn hoặc miễn
chấp hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần
thời gian còn lại được giữ nguyên như quy định của Pháp lệnh
hiện hành. Ngoài ra, Dự án Luật bổ sung quy định về việc quản lý
người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa
vào TGD (Điều 112). Theo đó, người được hoãn hoặc được tạm đình
chỉ chấp hành quyết định đưa vào TGD có trách nhiệm trình diện
với chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
họ cư trú hoặc làm việc; khi đi khỏi nơi cư trú phải có sự đồng
ý của các cơ quan, tổ chức nói trên. Trong thời gian được hoãn
hoặc được tạm đình chỉ chấp hành nếu đối tượng tiếp tục vi phạm
pháp luật hoặc bỏ trốn sẽ bị buộc chấp hành quyết định đưa vào
TGD. Đối với đối tượng không xác định được nơi cư trú sau khi
hết hạn chấp hành biện pháp đưa vào TGD mà chưa đủ 18 tuổi
hoặc ốm đau không còn khả năng lao động, thì TGD ra quyết
định đưa về Trung tâm Bảo trợ xã hội tại địa phương nơi TGD đóng
trụ sở (khoản 2 Điều 113). Việc bổ sung các quy định nêu trên
nhằm quản lý chặt chẽ NCTN được hoãn, tạm đình chỉ hoặc hết hạn
chấp hành quyết định đưa vào TGD, đồng thời cũng là để chính
quyền, cộng đồng có sự quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ NCTN hòa nhập
cộng đồng, không tiếp tục vi phạm pháp luật.