Tự chủ đại học: cánh cửa đi vào nền giáo dục - đào tạo chất lượng thật (Bài 3)
Tự chủ đại học ở Việt Nam và việ
Tự chủ đại học ở Việt Nam và việc phân tầng, xếp hạng
TS. Nguyễn Đình Hảo
Trường Đại học Đà Lạt
Tự chủ đại học không có nghĩa là tất cả các trường đại học đều có sự tự chủ hoàn
toàn như nhau. Tự chủ cần được giới hạn trong khuôn khổ phù hợp với vị trí.
Trong bài viết này, tác giả định nghĩa lại thế nào là tự chủ đại học và việc tự
chủ này có tác dụng trong quá trình phân tầng, xếp hạng đối với các trường đại
học, cao đẳng ở Việt Nam như thế nào.
Năm 2012, Luật Giáo dục đại học được ban hành đã khẳng định quyền tự chủ của các
trường đại học và được nêu thành một điều luật riêng (Điều 32). Quyền tự chủ
được nêu ở đây gồm: tự chủ về quản trị (tổ chức và nhân sự), tự chủ về tài chính
(tài chính và tài sản), tự chủ về học thuật (đào tạo, khoa học công nghệ, hợp
tác quốc tế, đảm bảo chất lượng).
Tuy nhiên cho đến nay quan niệm về tự chủ của các trường đại học còn rất phân
tán và vấn đề “Đẩy mạnh trao quyền tự chủ cho các cơ sở Giáo dục đại học” nêu ra
tại hội thảo lần này có ý nghĩa thời sự khá sâu sắc.
Càng ý nghĩa hơn khi Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo
dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế” cũng đã nêu rõ việc giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đào tạo, phát huy vai
trò của hội đồng trường….bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
Tự chủ đại học có nội hàm gì?
Theo một báo cáo của Liên hiệp các Đại học châu Âu, tự chủ đại học bao gồm: tự
chủ học thuật, tự chủ về quản lý tài chính, tự chủ về tổ chức và tự chủ về cán
bộ và nhân viên.
Quyền tự chủ đại học (autonomy university) ở đây nhấn mạnh đến một yếu tố quan
trọng nhất trong các yếu tố tự chủ là việc trao cho đại học quyền “tự do học
thuật” (la liberté académique).
Trong thời gian qua quyền tự chủ đại học ở nước ta được tập trung bàn đến nhiều
đến tự chủ về tuyển sinh, về chỉ tiêu đào tạo, về thu chi tài chính,…và tự chủ
học thuật chưa được chú ý đến nhiều.
Ở những nước phát triển tự chủ về học thuật được bàn đến đầu tiên sau đó mới bàn
đến tự chủ về nhân sự và tài chính vì có sự tự chủ về học thuật, về chương trình
đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội, của thị trường lao động thì nhà trường mới
có cơ sở xây dựng phương án về nhân sự đáp ứng được chương trình đào tạo đã đề
ra đồng thời lập kế hoạch về thu chi tài chính đáp ứng nhu cầu hoạt động của
nhà trường.
Quyền tự chủ (autonomy) và tự chịu trách nhiệm là hai khái niệm đi liền với nhau
rất quan trọng trong việc tổ chức, quản lý và điều hành hệ thống giáo dục đại
học trong nền kinh tế thị trường được thừa nhận rộng rãi trên thế giới.
Khái niệm “tự chủ” được nhiều trường ở nước ta nêu ra trong việc thực hiện
nhiệm vụ của mình nhưng khái niệm “tự chịu trách nhiệm” hầu như chưa được các
trường chú ý. Thật ra muốn được trao quyền tự chủ thì các trường không chỉ tự
chịu trách nhiệm mà còn cần phải có trách nhiệm báo cáo, giải trình
(accountability) về các hoạt động và quyết định của mình.
Nếu hiểu quyền tự chủ là quyền lợi mà nhà nước trao cho các trường thì trách
nhiệm báo cáo, giải trình là nghĩa vụ mà nhà trường phải thực hiện chứ không
phải chỉ “tự chịu trách nhiệm”. Trách nhiệm báo cáo và giải trình chính là nêu
lên trách nhiệm của nhà trường với cộng đồng xã hội trong việc tổ chức hoạt động
đào tạo của mình.
Thực trạng tự chủ đại học ở Việt Nam
Khái niệm “trao quyền tự chủ rộng rãi cho các trường đại học” được nhắc đến hơn
10 năm qua trong nhiều văn bản, được phát biểu ở nhiều diễn đàn, hội nghị nhưng
thực chất chúng ta chưa làm được bao nhiêu và chưa có sự chuyển biến đáng kể
trong giáo dục đại học.
Từ năm học 2006 – 2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương “cởi trói” cho các
trường đại học về tuyển sinh,tổ chức nhân sự, cấp phát văn bằng, mở ngành nghề,
chương trình đào tạo, liên thông, học phí, tự chủ tài chính, hợp tác quốc tế….
Trường Đại học Đà Lạt. Ảnh Website nhà trường.
Nhân tố cạnh tranh trong hội nhập khi Việt Nam gia nhập WTO được thể hiện ở
nhiều lãnh vực trong đó có giáo dục. Giáo dục đại học được nhắc đến nhiều nhất
với xu thế tự chủ đòi hỏi cần phải nhanh chóng đổi mới cơ chế để tạo sự phát
triển hội nhập với khu vực và thế giới nhưng thực tế thời gian qua giáo dục đại
học vẫn chưa thoát khỏi cơ chế “xin – cho”, từ chương trình đào tạo, ngành nghề,
nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tài chính,...
Việc triển khai tự chủ đại học đã được thực hiện thí điểm giai đoạn 2014 – 2017
ở 4 trường đại học trực thuộc Bộ như: Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại thương, Đại học Hà Nội và về sau mở rộng thêm ở
các trường như : Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, Viện Đại học Mở Hà Nội, Đại học
Tôn Đức Thắng, Đại học Tài chính – Marketting…có thể xem là những bước đi đầu
tiên trong việc thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam.
Việc sơ kết đánh giá về trao quyền tự chủ cho các trường đại học này so với sự
vướng mắc do cơ chế thể hiện ở những nội dung nào và các lãnh vực khác trong tự
chủ đại học các trường này đã thể hiện năng lực của mình đến đâu? Quyền tự chủ
của trường đại học càng lớn thì trách nhiệm xã hội càng cao.
Ở đây trách nhiệm xã hội không phải chỉ là những cam kết trên văn bản mà là
trách nhiệm của nhà trường đối với sinh viên, cha mẹ sinh viên, người sử dụng
lao động, công chúng và xã hội đón nhận những sản phẩm mà nhà trường đào tạo
nên. Kết luận nêu lên phải chăng quyền tự chủ đại học là quyền đương nhiên của
tất cả các cơ sở giáo dục đại học ?
Quyền tự chủ đại học ở Việt Nam thời gian qua được bàn đến với yêu cầu quyền tự
chủ của nhà trường không thể trao cho một cá nhân (Hiệu trưởng) mà phải trao cho
một Hội đồng trường mà thành viên là những đại diện tiêu biểu của nhà trường và
xã hội.
Thực trạng ở nước ta hiện nay vai trò của Hội đồng trường trong các trường đại
học ( công lập) chưa thật sự phát huy hết tác dụng là cơ quan quyền lực cao nhất
có chức năng quyết định những vấn đề chiến lược của nhà trường và chưa có cơ chế
kiểm tra độc lập đối với ban giám hiệu và hiệu trưởng.
Việc thành lập Hội đồng trường hầu như do ban giám hiệu (Hiệu trưởng) đề xuất để
thông qua theo đúng các trình tự quy định và có khi chỉ là hình thức “đối phó”
với sự kiểm tra của các cơ quan chủ quản.
Hội đồng quản trị của các trường đại học ngoài công lập đa số là các thành viên
góp vốn xây dựng nhà trường. Chủ tịch Hội đồng quản trị là người góp vốn nhiều
nhất và có vai trò quan trọng trong những hoạt động của nhà trường.
Với xu hướng tự chủ đại học trên thế giới ngày càng mở rộng và thực trạng tự chủ
đại học tại Việt Nam thì vấn đề cấp thiết hiện nay là phải có những giải pháp
thiết thực để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các cơ sở đại học trong
bối cảnh Việt Nam đã tham gia vào WTO và việc quản trị đại học cần phải có
những cải cách thực sự hơn nữa.
Phân tầng, xếp hạng trong giáo dục đại học
Trên thế giới quyền tự chủ đại học không phải được trao cho tất cả các trường và
không phải các trường được hưởng mức độ tự chủ như nhau. Những trường được trao
quyền tự chủ tối đa là những trường đại học nghiên cứu và được đánh giá cao
trong xã hội.
Thực tế Việt Nam hiện nay cho ta thấy rằng tự chủ cần được xem là quyền đương
nhiên của cơ sở giáo dục đại học khi cơ sở ấy đáp ứng những yêu cầu dựa trên kết
quả xếp hạng và kiểm định như Điều 32, Điều 53 của Luật Giáo dục Đại học.
Việc trao quyền tự chủ cho nhà trường đến đâu còn phụ thuộc vào năng lực của
từng trường. Khi nhà nước đang từng bước giao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở
đào tạo, đang từng bước mở rộng quy mô và các loại hình trường, loại hình đào
tạo thì công cụ quản lý nhà nước hợp lý nhất là kiểm định chất lượng. Xu thế
quốc tế hóa giáo dục đại học hiện nay là thúc đẩy nhu cầu xây dựng hệ thống quản
lý chất lượng.
Tháng 10/2014 Dự thảo Nghị định quy định về phân tầng và xếp hạng các cơ sở giáo
dục đại học ra đời, trong đó quy định việc phân tầng là sự sắp xếp theo nhóm các
cơ sở giáo dục đại học dựa trên các tiêu chí quy định và xếp hạng là sự sắp xếp
các cơ sở giáo dục đại học theo thứ tự cao, thấp về chất lượng được tính bằng
điểm theo khung xếp hạng trong mỗi tầng của hệ thống.
Cụ thể như sau: Tầng 1: Nhóm "định hướng nghiên cứu" có nhiệm vụ đào tạo nguồn
nhân lực từ trình độ đại học đến trình độ tiến sĩ trong các lĩnh vực khoa học đa
dạng, cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu cho các viện nghiên cứu, các trường đại
học, học viện trong cả nước, đóng vai trò chủ lực trong xây dựng đội ngũ nhân
lực để phát triển nền kinh tế tri thức.
Tầng 2: Nhóm "định hướng ứng dụng" cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu cho giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tầng 3: Nhóm "định hướng thực hành" là trường cao đẳng, đào tạo nguồn nhân lực
có trình độ cao đẳng trở xuống phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của
các địa phương. Việc phân tầng được thực hiện theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn
10 năm, do Thủ tướng duyệt. Ở mỗi tầng có 5 hạng.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam đưa ra Dự thảo về phân tầng và xếp hạng các cơ sở
giáo dục đại học.
Đã có nhiều ý kiến góp ý về Dự thảo này nhất là việc phân tầng cơ sở giáo dục
đại học định hướng nghiên cứu với 13 tiêu chí mà không phải trường đại học nào
của cũng có thể đạt đến. Khi triển khai thực hiện chắc chắn sẽ có nhiều điểm bổ
sung để phù hợp với thực trạng với các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
Ở nước ta hiện nay có hơn 440 trường đại học, cao đẳng đang đào tạo chồng chéo,
lẫn lộn giữa nghiên cứu – thực hành và ứng dụng nhưng những “phác thảo” ban đầu
này sẽ giúp cho các trường dần dần định hướng cho sự phát triển của đơn vị mình
trong tương lai.
Tự chủ đại học không có nghĩa là tất cả các trường đại học đều có sự tự chủ hoàn
toàn như nhau. Tự chủ cần được giới hạn trong khuôn khổ phù hợp với việc xác
định vị trí của nhà trường trong xã hội.
Khi chưa có những tiêu chí cụ thể về loại hình các trường đại học thì việc phân
tầng, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học đã ban hành (dù là Dự thảo – cần có kế
hoạch để chính thức ban hành) tạm thời có thể xem là “chỗ dựa” để xác định mức
độ tự chủ của từng trường. Đây cũng là cốt lõi hình thành nên thực chất của khái
niệm “tự chủ đại học”.
N.M.S và N.L sưu tầm
Nguồn: Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam - Bộ Giáo dục và Đào tạo:
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Tu-chu-dai-hoc-o-Viet-Nam-va-viec-phan-tang-xep-hang-post163086.gd;
cập nhật ngày 06 tháng 11 năm 2015